Góc chia sẻ] Thổi hồn mới vào Hán Nôm Công giáo

 Kính thưa quý độc giả, Tập san Mục đồng online xin gửi đến mọi người một video rất hay về Hán Nôm Công giáo từ Tổng giáo phận Sài Gòn, do thầy Michel Nguyễn Hạnh, Nhà Nghiên cứu Hán - Nôm hướng dẫn...


Mến chúc quý độc giả gặt hái được nhiều điều lý thú từ chương trình này.


"BẬU GIEO TIẾNG DỮ CHO RỒI BẬU RA" 

* "Bậu", xin mượn lấy một cách gọi chân tình để bài viết này gửi đến một số anh em Cơ Đốc nhân (Tin Lành) "gieo tiếng dữ" tức gieo lời lẽ không đúng về Đức Maria! Gọi là "một số" thôi, nghĩa là vẫn có những Cơ Đốc nhân khiến tôi thiện cảm. 



Đối với quí bạn ngoài Ki-tô giáo, stt này cũng sẽ giúp hiểu thêm về một khía cạnh trong Ki-tô giáo. 

/1/ "Gieo tiếng dữ" là nói rằng Công giáo thờ phượng Đức Maria.
Nào phải vậy đâu! Bên Công giáo minh định CHỈ THỜ PHƯỢNG CHÚA JESUS LÀ THIÊN CHÚA mà thôi (trong mầu nhiệm "Một Chúa Ba Ngôi"). Còn Đức Maria là tôn vinh, tôn quí, hết sức tôn quí. 

Đây, nói ngay về sự kiện "Đức Maria hiện ra tại Fatima" với xâu chuỗi Mân Côi trên tay, được biết đến trên toàn cầu. Quí bạn có biết, Đức Maria dạy cứ sau một chuỗi mười kinh thì dâng lên lời nguyện, "Lạy Chúa Jesus xin tha tội cho chúng con (...)". 

Luôn luôn phải hướng tâm tình thờ phượng Chúa Jesus Christ (Giê-su Ki-tô), vì chỉ có Chúa mới đủ năng quyền tha thứ tội lỗi, vì Chúa Jesus là Đấng Cứu độ. 

(đã từng có đề nghị gọi Đức Maria là "Đồng công cứu chuộc", nhưng giáo hội Công giáo bác bỏ, dù tôn kính Đức Mẹ đến mấy đi nữa, thì chỉ có Chúa Jesus là đấng Cứu chuộc duy nhứt mà thôi)

* Chuỗi Mân côi có "5 sự vui", "5 sự thương", "5 sự mừng", "5 sự sáng". Đây, xin dẫn lời suy gẫm "5 SỰ SÁNG". Mời đọc: 

(lời gẫm thứ nhứt) Ðức Chúa Jesus chịu phép rửa tại sông Jordan. Ta hãy xin cho được sống đẹp lòng Ðức Chúa Trời. 

(lời gẫm thứ hai) Ðức Chúa Jesus làm phép lạ hóa nước thành rượu tại Cana. Ta hãy xin cho được vững tin vào quyền năng Ðức Chúa Trời. 

(lời gẫm thứ ba) Ðức Chúa Jesus rao giảng Nước Trời và ơn thống hối. Ta hãy xin cho được ơn cải sửa tâm hồn. 

(lời gẫm thứ tư) Ðức Chúa Jesus biến hình trên núi Tabor. Ta hãy xin cho được luôn lắng nghe lời Người. 

(lời gẫm thứ năm) Ðức Chúa Jesus lập phép Thánh Thể. Ta hãy xin cho được siêng năng rước Mình Máu Thánh Chúa.

=> Luôn là tâm tình con cái của Đức Chúa Trời, khi dành những suy gẫm hướng đến Chúa Jesus.

/2/ Đức Maria hiện ra tại Fatima, khuyên siêng năng cầu nguyện cho "nước Nga trở lại đạo". 

Nữ tu Lucia, một trong ba người được thị kiến cuộc hiện ra của Đức Maria, cho biết - "Trở lại Đạo, tại nước Nga, nghĩa là trở lại Chính thống giáo". 

Thấy gì? Lời cầu nguyện của tín hữu Công giáo đâu phải dành cho Công giáo, mà như lời Đức Maria hướng dẫn, là cầu cho tín hữu Chính thống giáo. 

Rộng ra, nhờ lời khuyên bao dung của Đức Maria, để hiểu thêm rằng: bất luận tín nhân thuộc Công giáo, Tin Lành, hay Chính thống giáo, hết thảy đều là con cái Đức Chúa Trời. 

/3/ Đức Maria là "ĐỨC MẸ" mà tín hữu Công giáo xưng tụng, hơn nữa, Mẹ là "MẸ CỦA CHÚA"! 

Xin nhấn mạnh, danh hiệu "MẸ CỦA CHÚA" được ghi tỏ tường trong Tân Ước Luke 1:41-43 (theo bản dịch Việt ngữ của Tin Lành, bản hiệu đính 2010). 

Bà Elizabeth thốt lên lời tuyên xưng: "MẸ CỦA CHÚA", bởi đâu? Bởi bà "được đầy dẫy Đức Thánh Linh" (cũng theo bản dịch Việt ngữ Tin Lành). 

/4/ Ắt quí bạn đều biết Mẹ Teresa (vị nữ tu, giải Nobel Hòa bình 1979). Có ai "đâm hơi" đi gọi là "bà Teresa" này, "bà Teresa" nọ không? Không. Mà đều gọi là "Mẹ Teresa". Gọi "Mẹ" đâu có nghĩa là thờ phượng, mà là cách gọi tôn quí, trân trọng! 

Vậy, sao không thốt lên lời xưng hô "ĐỨC MẸ", mà ở khá nhiều Cơ Đốc nhân Tin Lành cứ gọi bà Mary này, bà Mary nọ? 

Đâu là tinh thần hiệp một, theo lời dạy của Chúa Jesus? 

"Hiệp một" ở đây, tôi cảm nghiệm rằng, chỉ có thể có được từ sự thấu hiểu Kinh Thánh (Luke 1:41-43)! 

Và từ lòng chân thành đối với Đức Mẹ Mary (Maria). 

/5/ "Hiệp một", mẫu hình này được nhìn thấy - chẳng hạn, nơi cộng đoàn Taizé, cùng nhau học hỏi, suy niệm Kinh Thánh, cầu nguyện bằng lời ca tiếng nhạc đơn sơ nhứt. 

Taizé được bắt đầu từ sáng kiến của Mục sư Roger Schütz. Hàng năm, cả trăm ngàn tín nhân Công giáo và Tin Lành tề tựu bên nhau.

/6/ Đức Maria đau đớn đến xé ruột xé gan khi nhìn thấy Đức Jesus Christ chịu nhục hình khủng khiếp trên thập giá. 

Hãy nghĩ đến nỗi đau tận cùng trong trái tim một người mẹ. 

"Mẹ Maria ơi, thưa mẹ". Học hỏi từ Mẹ lời "xin vâng", trong chương trình Cứu độ của Đức Jesus Christ. 

"Mẹ Mary", "Đức Mẹ Mary" - lời gọi thiết tha, dịu dàng, đẹp đẽ xiết bao.

Gọi "MẸ MARY", mà không thể hay sao? Lẽ nào mở miệng quá khó khăn đến vậy sao? 

Một lần nữa, xin đừng "BẬU GIEO TIẾNG DỮ CHO RỒI BẬU RA"./.

-------------------------------------------------------

Matthew NChuong


o

NHỮNG CÔNG TRẠNG ÍT ĐƯỢC BIẾT ĐẾN CỦA CÁC THỪA SAI...

Đóng góp của các Thừa sai dẫn đến đổi thay trong đời sống văn hoá, xã hội và kinh tế ở Việt Nam theo hướng văn minh hơn, hiện đại hơn rất nhiều. Ở đây, tôi chỉ ghi chú vài công trạng ít người biết đến...

*



Với người dân Việt, các ngài giúp dân tổ chức canh tác đất đai, đưa kiến thức, khoa học kỹ thuật phương Tây về để làm nên hiệu quả kinh tế. 

Sau bách hại 1885, cha Jean Maillard Thiên từ Gia Hựu ra Phú Thượng, phổ biến cách trồng trà, càphê và lúa, được bổ nhiệm làm thành viên Phòng canh nông và thương mại Annam (Chambre d'agriculture et de commerce de l'Annam). 

Cố Đề Marie-Louis-de-Gonzague Villaume nổi tiếng với các công trình thủy lợi tại Phan Rang. Cha cho khôi phục lại một con mương cũ mà hiện nay vẫn còn được gọi là Mương ông Cố; khôi phục đập và mương Rừng Cấm, thay thế đập chắn cũ của Nha Trinh, tạo nên cả một vùng ruộng lúa thành công đến nỗi một viên thanh tra nông nghiệp trong bản báo cáo chính thức gọi cha là “nhà khai khẩn cừ khôi của xứ Annam". 


Đức cha Jean Claude Miche Mịch (Gioang) là người có công đưa giống cây mảng cầu Xiêm (corossolier) về Đông Dương, nguyên là một giống cây có nguồn gốc từ Châu Mỹ. Ban đầu ngài có bài sai đi Đàng Trong, nhưng vì bách đạo nên đi Bangkok và Cambodge. Năm 1840, ngài đến Đàng Trong và làm Quyền đại diện, bị bắt và dẫn về Huế. Trong suốt những chuyến đi đó đây, ngài rất quan tâm đến thực vật. Ngày 6 tháng Giêng 1870, khi làm Đại diện tông tòa Tây Đàng Trong, ngài viết cho cha Laigre ở Penang : «Có những loại trái cây ở trường Penang mà tôi rất muốn du nhập vào đây, nơi chúng vẫn còn chưa được biết đến, như mít tố nữ (champada) và chôm chôm (ramboutan). Nếu cha vui lòng, khi các chủng sinh về Sàigòn, thì xin cha giao cho họ một thùng các giống cây nói trên để họ chăm sóc chúng trên đường về, như vậy tôi sẽ rất vui cũng như giám đốc vườn bách thảo Sàigòn».Như thế, rất dễ hiểu là tại sao các vùng Lái Thiêu và miền Tây lại trở nên một miền trù phú với các giống cây trái mà hiện nay đã hợp thổ nhưỡng trở thành cây bản địa.

Một số thừa sai «chết» với cái biệt danh gắn liền với công trạng nổi bật của họ. Trong cuốn Niên giám Đông Dương thuộc Pháp, cha Wendling có biệt danh là «Missionnaire-agriculteur» (Thừa sai nông gia), cha Marie Honoré Tissier là «Missionnaire-propriétaire» (Thừa sai điền chủ) và không ngạc nhiên lắm khi cha Maheu được gọi là “Missionnaire-imprimeur” (Thừa sai nhà in). 


Cố Linh mục Antoine Wendling (1869-1923), làm việc tại Cây Da, Trà Kê từ năm 1895. Năm 1897, ngài xây nhà thờ mới Trà Kê. Năm 1901, được gọi về Mằng Lăng. Tại Mằng Lăng, ngài tiếp tục công trình xây dựng nhà thờ còn đang dỡ dang do cha Joseph Lacassagne (cố Xuân) để lại, không liên can gì đến việc đồng áng. Có lẽ biệt danh “nông gia” này có từ thời ngài còn ở Trà Kê và Cây Da. 

Cố Ngọc Marie Honoré Tissier (1864-1919) năm 1893,  làm việc tại Chợ Mới, Bình Cang. Năm 1897, phụ trách Trung Sơn, Quảng Ngãi. Chính tại đây, ngài đã khai khẩn các triền đồi để trồng trà và quế, tạo công ăn việc làm cho người dân quanh vùng. Có lẽ vì là chủ sở hữu các đất canh tác này mà ngài có biệt danh “Thừa sai điền chủ”. «Bên hữu ngạn sông Trà Bồng, cách con sông vài cây số, ở Trung Sơn (Huyện Bình Sơn), gần địa sở của mình, Cha Tissier sở hữu ba đám gò đồi rừng, nơi ngài trồng tiêu, trà và quế,… Nhờ nỗ lực cá nhân cũng như làm việc vất vả mà cha đã biến đổi đất rừng thành những vườn tiêu, đồn điền trà và sắn mì như ta thấy ngày nay…. Ngày nay, kết quả rất khả quan.

 Trong vườn có khoảng 1.000 gốc tiêu. 3.000 gốc khác được trồng trên đồi mà khoảng một phần tư đã được khai phá hoàn toàn, cây giống tiêu đã được trồng thử và có vẻ như đã thành công; bốn cái giếng được đào để tiêu tưới trong mùa khô. Ngoài tiêu ra, hiện thời có 2.000 gốc đang sinh lợi và 30.000 gốc ươm, mà 15.000 gốc sẽ được trồng trong năm tới trên những mảnh đất được cấp tốc phát hoang.

 Khoảng 500 cây quế cũng đã lên mạnh và 500 cây khác trong vườn ươm. Để đạt được mục đích, ngài đã phải chiến đấu chống lại đất đai bạc bẽo, khô cằn, khí hậu xấu, sự thờ ơ của người bản xứ và ngay cả những con thú hoang. Hiện nay vẫn còn những con hoẵng, nai, đến gặm những gốc quế hoặc chè trong khi lũ khỉ nhổ những dây tiêu, nếu không thì mấy con gà rừng cũng đến đào cho bật gốc. Ngài thật sự có công khi làm việc và thành công trong những điều kiện khắc nghiệt như thế. Một tấm gương đáng noi theo».

Cố Mỹ Maheu học tiếng Việt tại cảng Qui Nhơn, rồi làm cha phó cho cha Villaume ở Phan Rang. Ít lâu sau ngài phụ trách các sở họ ở Ninh Hòa, nhưng chỉ được một thời gian ngắn thì kiệt sức và phải đi nghỉ dưỡng ở Hong Kong trong vòng một năm. Khi trở lại địa phận, ngài được gởi đi làm việc nơi người Bahnars, nhưng chỉ được 4 tháng thì căn bệnh buộc ngài phải trở lại đồng bằng và rồi sau đó lại đi Hong Kong nghỉ bệnh. Tại đây, ngài học nghề in với cha Monnier tại Nhà in Nazareth, học từ khâu vận hành máy in, đúc chữ, xếp chữ, cho đến đóng bìa …. Trở về địa phận vào tháng Bảy 1904, ngài phụ trách nhà in của địa phận từ tháng Chín năm đó và cũng từ đấy ngài mang biệt danh «missionnaire-imprimeur» (thừa sai nhà in). 

Cha Maheu quả là một thừa sai đa năng, hoạt động trong nhiều lãnh vực. Ngoài nhà in, ngài còn là sáng lập viên trại phong Qui Hòa và Hội học Pháp Nam Qui Nhơn, một hoạt động ít được biết đến. «Hoạt động xã hội của cha Maheu không chỉ dừng lại ở Trại phong Qui Hòa mà chúng tôi có dịp nói đến gần đây, mà còn có một thiết chế có thể thấm nhập cả đời sống con người và là điều đáng hãnh diện cho người sáng lập ra nó. Người mà chúng tôi nói đến ở đây là một người nhiệt tâm và đầy tham vọng trên lãnh vực nhân ái. Chăm sóc cho những người bị thua thiệt, nạn nhân của chứng bệnh kinh tởm, cho họ chỗ ở, nuôi sống họ, an ủi họ trong cảnh khốn cùng, điều đó vẫn chưa đủ đối với sự tận tâm của con người tông đồ này, người phục vụ xứng đáng của Đức Kitô. Ngài có lý khi nghĩ rằng : «Lo phần xác thì tốt nhưng chưa đủ, phải lấp đầy tri thức, làm cho nó phát triển». Và thế là ngài bắt đầu công việc.

 Ngài sáng lập Hội học Pháp Nam Qui Nhơn (Cercle d’études franco-annamite de Quinhon) như đã sáng lập Trại phong Qui Hòa, hai thiết chế đều cần thiết và cấp thiết trên các phương diện khác nhau. Ở lãnh vực này, ta chữa trị, làm giảm nhẹ các căn bệnh. Ở lãnh vực kia, ta duy trì sức khỏe tinh thần nơi những người khỏe mạnh phần xác. Làm sao diễn đạt và thực hiện được dự định cao cả này chứa đựng trong câu ngạn ngữ lừng danh «Tinh thần khỏe mạnh trong một thân xác tráng kiện»? Điều lạ lùng nhất là vị linh mục lỗi lạc này, được đức tin vững mạnh nâng đỡ, đã thành công trọn vẹn trong hai sáng kiến này, dù cho có những câu tục ngữ bi quan biện hộ cho tính lười biếng hay làm nản lòng những thiện ý nhưng chúng chẳng mấy ảnh hưởng đến những bản tính mạnh mẽ và quyết đoán : «Qui trop embrasse mal étreint » (Ôm đồm cho lắm chẳng xong việc nào)» ; «Il faut se garder de courir deux lièvres à la fois» (Đừng chạy theo hai con thỏ cùng lúc; Đừng bắt cá hai tay) etc…. Nên lưu ý một chút là cha Maheu đã loại bỏ những vấn đề chính trị và tôn giáo khỏi hai cơ sở này của ngài, đây là điều đáng khâm phục nơi một vị tu sĩ. Mục đích duy nhất của ngài chỉ là sự xích lại gần nhau giữa người Pháp và Việt, giúp những con người ưu tú của hai dân tộc này hiểu nhau …. ».

(Hình: Với linh mục Võ Đình Đệ-một nhà nghiên cứu uyên thâm về lịch sử và văn hoá Công giáo ở Việt Nam-ở nhà truyền thống giáo phận Quy Nhơn...)

Hình

 CÁC CHỦ ĐỀ MỤC ĐỒNG 2024

(Theo định hướng Hội thánh hiệp hành - ở mức độ cộng đoàn Giáo xứ)

ĐỊNH HƯỚNG CHUNG: Các bàn thảo của Giáo hội trong thời gian vừa qua về Hiệp Hành đã dàn trải ở nhiều cấp độ khác nhau, từ hoàn vũ cho đến địa phương. Có thể từ “hiệp hành” đã trở nên quá quen thuộc với mọi người, nhưng việc sống được tinh thần hiệp hành vẫn còn là một hành trình dài phía trước. Câu hỏi nên đặt ra cho tất cả mọi người vào lúc này có lẽ không phải là “Giáo hội dạy gì về hiệp hành?” mà là “Tôi đã cảm nghiệm được gì về chiều kích hiệp hành trong Giáo hội? Giáo xứ của tôi, cộng đoàn của tôi sống hiệp hành thế nào?”
Tiếp nối những chủ đề của năm 2023, Mục Đồng 2024 có thể tiếp tục cùng nhịp bước với Giáo hội trong lựa chọn viết về những nét đẹp của việc hiệp hành trong nhịp sống Giáo hội, nhưng ở mức độ cụ thể hơn là của Giáo xứ và của các hội đoàn trong Giáo xứ.



Tiêu đề cho Mục Đồng

Vài ghi chú về nội dung

Số 29

MÙA XUÂN ĐỨC TIN

 

Viết về Thiếu Nhi Thánh Thể. Về các buổi học giáo lý. Về những buổi cắm trại. Về những tình bạn và những ký ức đẹp trong đời sống đạo... Tất cả những khởi đầu ấy đều mang hương vị ngọt ngào và tươi đẹp của một Mùa Xuân Đức Tin.

o   Điểm nhấn: hạnh phúc được sinh ra và được nuôi dưỡng giữa lòng một Giáo hội hiệp hành.

Số 30

BẢN ĐỒNG CA DÂN CHÚA

 

Viết về ca đoàn: một minh hoạ cụ thể của tinh thần hiệp hành trong nhịp sống của Giáo hội. Hát là cầu nguyện hai lần. Nhưng để hát trong một dàn đồng ca, mỗi người đều có một vai trò nhất định, và mỗi người đều cần làm tốt vai trò của mình.

Cũng có thể viết về những câu chuyện đẹp từ bối cảnh ca đoàn: những giọng hát thiên thần, những câu chuyện tình, những hy sinh trong việc đi tập hát, những buổi diễn nguyện, tiếng phong cầm, người ca trưởng…

o   Điểm nhấn: niềm vui được phục vụ và được triển nở trong lòng một Giáo hội hiệp hành.

Số 31

PHỤC VỤ TRONG TIN YÊU

Viết về nhiều hoạt động và các nhóm  phục vụ khác nhau làm nên sức sống của một cộng đoàn Giáo xứ: các chức việc, người gác chuông, những người giữ xe, giúp lễ, phòng thánh, ban tang lễ, các nhóm thăm viếng kẻ liệt, các ban bác ái…

o   Điểm nhấn: ý nghĩa của những hy sinh quảng đại và thầm lặng trong việc xây dựng một Giáo hội hiệp hành.

S32

HƯƠNG KINH BAY XA

Viết về và các nhóm cầu nguyện và những hoạt động thiêng liêng trong Giáo xứ. Viết về những người không ngừng nâng đỡ và xây dựng Xứ đạo bằng đời sống đạo đức trong chiều sâu và trong chiều kích thiêng liêng: giới hiền mẫu, hội mân côi, giới gia trưởng, hội kẻ liệt, Legio, những cuộc tĩnh tâm, các buổi chầu Thánh Thể…

o   Điểm nhấn: niềm bình an và giá trị thiêng liêng của những lời kinh nguyện cùng nhau trong đời sống của Giáo hội hiệp hành.


 MỘT GIẤC MƠ BUỒN

Trần Tiểu Thùy


 XƯƠNG RỒNG NỞ HOA

Maria Nguyễn Thị Huyền


 NỖI LÒNG CÂY BÚT NHỎ + MÈO CON TÌM MẸ

Ngô Văn Vỹ + Phạm Tuấn Vũ


 SAU NHỮNG BẤT HẠNH LÀ CHUỖI DÀI HỒNG ÂN

Y Thanh Thanh


 TỒN TẠI? + VỀ QUÊ ĐÓN TẾT

Thái Thị Mỹ Trà + Đinh Hạ


 EM, NGƯỜI "HUYNH TRƯỞNG CHÚA KITÔ"

Nguyên Hương


 THƠ TRẦN MỘNG TÚ

Bùi Công Thuấn


XUÂN QUÊ TÔI + TRỞ VỀ ĐẤT MẸ

Jos. Nhật Quang + Nguyễn Đức Tình


 XUÂN VỀ VẮNG MẸ + ĐIỆU NGÀY GIÊNG

Hồng Phúc + Nguyễn Nguyên Phượng

 NHÀ LÀ TỔ ẤM

Lê Phượng


MONG TẾT ĐỂ VỀ

Mai Hoàng


 CHIỀU CUỐI NĂM

Huỳnh Thị Kim Cương


QUÊ ƠI

Anna Bích Hạt


 CUỐI NĂM + GIỌT NƯỚC MÙA XUÂN

Phạm Ánh + Đoàn Văn Sáng


 HÔN PHỐI + CÙNG ĐÓN XUÂN

Nguyễn Văn Học + Huỳnh Gia


 NGƯỜI ĐÀN BÀ NGỒI TRƯỚC HIÊN

Trương Thị Thúy


VỀ QUÊ MÙA DỊCH

Ngô Nữ Thùy Linh
 

 "BÌNH THƯỜNG MỚI"

Nguyễn Ninh, OP


 GƯƠNG SÁNG

Hoa Trinh Nữ


 LẤY CHỒNG CÔNG GIÁO

Paul Nguyễn


 XUÂN CON VỀ + BẾP LỬA MÙA XUÂN

Lương Mỹ Hạnh + Nguyễn Chí Ngoan


 HỒI HƯƠNG

Rubik Nguyễn


 GIỮA ĐẠI DƯƠNG

Khánh Liên


 MÃI MỘT TÌNH YÊU

Anê Ngô Thị Kim Chung


 CA LÒNG TRI ÂN

Anê Phạm Tuyết Oanh


 HOA BIẾT ƠN

Maria Đặng Thị Liên


 Thư gửi quý Tác giả của Tuyển tập Mục Đồng



Quý Tác giả thân mến!


Ban biên soạn (BBS) Tuyển tập Mục Đồng chân thành cảm ơn quý vị. Nhờ tình yêu và lòng nhiệt thành cộng tác của quý vị trong 6 năm qua mà Mục Đồng có một chỗ đứng trong lòng độc giả. Nay BBS tha thiết mời quý vị tiếp tục cộng tác và đáp ứng một mong muốn nhỏ để việc biên soạn được thuận lợi hơn.


Trong thời gian qua, BBS đã gặp phải nhiều khó khăn khi chỉ với 3 tháng, từ hạn chót nhận bài cho tới khi xuất bản một tuyển tập, BBS phải hoàn thành các khâu: đọc chọn, biên tập, gửi nhà xuất bản cấp giấy phép, dàn trang, trình bày, in ấn và phát hành. Đáp ứng nhiều khâu như vậy trong thời gian ngắn quả là khó khăn.


Chính vì vậy, BBS kính mong quý Tác giả gửi bài về sớm hơn, trước số Mục Đồng định đăng là 6 tháng để BBS có đủ thời gian biên tập và xuất bản. Đầu mỗi tác phẩm, tác giả ghi rõ số của Mục Đồng định đăng và gửi kèm theo hình ảnh minh họa cho bài viết của mình. Độ dài bài viết: bài văn từ 2000 đến 2500 từ, thơ không quá 50 câu. Nếu được, xin quý tác giả gửi cùng lúc các bài cho các số trong một năm. (Xin được nhắc lại, mỗi năm, Mục Đồng phát hành 4 số: Xuân - Hạ - Thu - Đông). Trong năm 2023, số 27 dự trù phát hành đầu tháng 8 và số 28 phát hành đầu tháng 12. Chủ đề các số năm 2024 sẽ được giới thiệu ở trang bìa 2 của Mục Đồng 27.


Nội dung của tác phẩm: Có tính Kitô giáo - Niềm vui Tin mừng, tính nhân văn và giàu chất nghệ thuật (xem thêm ở trang bìa 2 và 4 của mỗi tuyển tập Mục Đồng).


Kính mong quý tác giả đồng cảm và cộng tác để BBS hoàn thành tốt phận vụ của mình.


Xin Thiên Chúa ban ơn và chúc lành cho quý vị.


Xin gửi tác phẩm về Email:
tuyentapmucdong@gmail.com hoặc tapsanmucdong@gmail.com 


                                                                                 Qui Nhơn, 09/3/2023
                                                                               Trưởng Ban Biên Soạn
                                                                      Linh mục Phanxicô Lê Quang Thạch 

 Cuộc thi Văn Thơ mừng Năm Thánh

“350 năm Dòng MẾN THÁNH GIÁ Đàng Trong - Qui Nhơn”

Nt. Rosa Đỗ Quyên


 BÊN PHÚT GIAO THỪA + CUỘC VUI LỮ KHÁCH

Xuân Cát, OP + Cát Đen


 KHI CHIM SẺ GỌI BẦY + NHỮNG ƯỚC MƠ

Diệp Vy + Trần Trung Hậu


 NHỮNG CHÚ CHIM TRONG THÙNG THƯ của Rene Bazin (Pháp)

Người dịch: Trần Ngọc Hồ Trường


 RONG CHƠI Ở NGÃI ĐIỀN (ĐÔNG ĐÀNG TRONG)

Lm Phaolô Nguyễn Minh Chính


 "NGUỒN" Ở BÌNH ĐỊNH VÀ THẦY SÁU DO ĐI "BUÔN NGUỒN"

Nguyễn Thanh Quang


 LỜI NGUYỆN NHỎ + THƯƠNG NHỚ TẾT QUÊ XA

+ GIEO HẠT TÌNH XUÂN

Lệ Hằng + Trần Văn Nghĩa + Phêrô Nguyễn Bá Hiếu


 GIAO THỪA TRỐNG VẮNG

Đoàn Thị Minh Hiệp

VỀ SÁCH BÁO CỦA TÁC GIẢ CÔNG GIÁO THẾ KỶ XVII - XIX

 ĐÊM GIAO THỪA

Tương Quan


 KHÔNG LỠ CHUYẾN PHÀ XUÂN

Sơn Trần


 BỐ MẸ ƠI, TẾT ĐÃ ĐẾN RỒI!

Anthony Mary


TẠ ƠN VÀ TÍN THÁC

 Chung Thanh Huy


 CHI TIẾT TRONG LỊCH SỬ 

Ai là người Việt Nam đầu tiên theo đạo Thiên Chúa ? Và có thể bắt đầu bằng câu hỏi này, vấn đề về việc đạo Thiên Chúa ảnh hưởng đến lịch sử Việt Nam có thể sáng tỏ thêm. Lịch sử đôi khi bừng sáng bởi những chi tiết, Tư Mã Thiên là bậc thầy trong thủ pháp này khi viết Sử ký.



Đó là Đỗ Hưng Viễn, một vị quan dưới triều Lê Anh Tôn (1556-1573). Thời này tuy đã có những tu sỹ đến Việt Nam nhưng họ chỉ làm mục vụ cho những người phương Tây hoặc thủy thủ từ các thuộc địa theo đạo Thiên Chúa trên những con tàu đến Việt Nam buôn bán chứ chưa truyền đạo - cuốn “Những người châu Âu ở nước An Nam” của Charles Maybon chép rất chi tiết.

Cha Poncet trong tập “Đô thành hiếu cổ” có viết : “Hung Vien, L’un des premier Annamites sinon le premier, convertis au catholicismes”- Hưng Viễn, một trong những người An Nam đầu tiên, nếu không muốn nói là đầu tiên, cải sang đạo Công giáo.

Cha Poncet căn cứ vào tài liệu nào ? Đó là gia phả của họ Đỗ làng Bồng Trung, huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hóa, gần Trường An và Lam Kinh, nơi mà các vua Lê chạy về sau khi bị nhà Mạc cướp ngôi.

Điều này được khẳng định bởi Cha Cadière, người đã có tới 250 công trình nghiên cứu về Việt Nam và Tàu, ông đã được họ Đỗ đưa cho cuốn gia phả này, trong đó chép : “Đỗ Công Biền đậu Cống sinh thi Hương năm Kỷ Dậu, đời vua Chính Trị (Lê Anh Tôn) năm thứ 7, được phong (liệt kê các tước hiệu) ....Con đầu là Viên Đức, con thứ là Hưng Viễn theo đạo người Hòa Lan”.

Với những khảo cứu căn cứ trên nhiều nguồn tư liệu, Cha Cadière khẳng định, Hưng Viễn đã theo đạo Thiên Chúa ở Macau hoặc quần đảo Nam Dương. Vào thời kỳ ấy, vua Lê Anh Tông bắt được một chiếc tàu của người Bồ Đào Nha, trên tàu có mang theo một lá thư của một tu sỹ gửi cho nhà vua, ngài đã thả chiếc tàu và cử một vị quan mang thư trả lời đến thuộc địa của người Bồ Đào Nha. “Người Việt ấy sang một xứ đạo ở thuộc địa Bồ Đào Nha, theo đạo Công giáo ở xứ ấy rồi trở lại nước nhà, thờ phượng cây Thánh Giá một cách công khai. Nhà vua đã được nghe tố cáo rõ ràng về việc ấy”- tư liệu này chép.

Gia phả họ Đỗ chép: “Đỗ Hưng Viễn được phong chức Phụ quốc Thượng tướng quân, Tiết chế, Nam quân Đô đốc, Kỳ quân công có con trưởng là Đỗ Viên Mãn theo đạo Hòa Lan không được thờ phụng tổ tiên phải giao lại việc hương hỏa cho em là Đỗ Viên Chính”

Có một chi tiết thật thú vị, người truyền đạo cho Đỗ Viên Mãn lại chính là Cha Alexandre de Rhodes (Đắc Lộ), Cha có kể lại mình đã làm phép Rửa cho cả gia đình một ông quan lớn, chỉ có ông này là không, nhưng trước khi chết ông cũng xin làm phép rửa. Có thể tin điều này vì thời gian Cha Đắc Lộ ở Kẻ Chợ (Thăng Long) trùng với thời gian ghi trong gia phả họ Đỗ . Trong con cháu của Đỗ Viên Mãn có một người làm Linh mục, đó là Cha Jacques Đỗ Năm, bị giết thời cấm đạo của vua Minh Mạng năm 1838. ngày 21 tháng 5 năm 1900 Giáo Hoàng Leon XIII đã ghi tên ông vào danh sách các Thánh tử vì đạo.

Tại Trường An, Thanh Hóa còn một làng gọi là làng Gia Tô, một nền đất gọi là nền Gia Tô, một cái giếng cũng gọi là giếng Gia Tô dù không còn ai là Ki tô hữu. Nó có liên hệ đến một câu chuyện về một bà công chúa tên là Mai Hoa (còn gọi là bà chúa Chè)tên thánh là Flora Marie em gái vua Lê Anh Tông, được vua đề nghị gả cho cho một giáo sỹ kiêm võ quan người Y Pha Nho (Tây Ban Nha) là Ordunez de Ce’vallos, tất nhiên là một giáo sỹ, De Ce’vallos không thể kết hôn, Công chúa Mai Hoa đã lập một nhà tu kín ở gần cung điện nhà vua ở Trường An. Nhiều người vẫn coi đây chỉ là truyền thuyết không đáng tin cậy, nhưng xin nhớ, các vua Lê thời đó đã muốn liên kết với phương Tây để đánh lại nhà Mạc, vua Lê Thần Tông có một cung phi là người Hà Lan hiện vẫn còn tượng thờ ở Điện vua Lê thì chuyện công chúa Mai Hoa có thể đáng tin.

Cha Cadière có một nhận định rất sâu sắc : “Chúng ta vừa thấy việc khảo cứu về gia phả họ Đỗ đã chỉ dẫn cho chúng ta biết những gốc tích đạo Thiên Chúa ở Việt Nam. Và những lời chú giải sau này cho chúng ta thấy rằng những tài liệu như thế còn có thể cho chúng ta những chỉ bảo quý báu về lịch sử toàn quốc của nước Việt Nam”.

Quả vậy, trong gia phả họ Ngô nhà tôi chẳng hạn, có rất nhiều chuyện có tác động sâu sắc đến lịch sử của thời đại ấy mà không hề được chép trong chính sử. Hay có những sai sót về niên đại giữa chính sử và gia phả mà không được giải thích, thường thì (hầu như luôn luôn) người ta chỉ chấp nhận chính sử mà gạt bỏ những nguồn khác.

Việc này cần cái tâm cũng như trình độ của người làm sử, chỉ một chi tiết trong gia phả họ Đỗ : “Năm Chính Trị (Lê Anh Tông) thứ 15, Đỗ Biều được phong tước Lương Khê nam”. Tất cả các bộ chính sử đều chép niên hiệu Chính Trị chỉ có 14 năm. Ai đúng ?

Cha Cadière đã lục tung các tư liệu cũ, thì ra trong Cang Mục có chép: :Tháng Giêng năm Nhâm Thân (1572) vua Lê Anh Tông làm lễ tế Giao có đánh rơi cái lư trầm. Triệu bất tường nên các quan đề nghị thay đổi niên hiệu, thay năm Chính Trị thứ 15 bằng niên hiệu Hồng Phúc thứ nhất”, thêm nữa, ngày 22 tháng Giêng năm Quý Dậu (1573) nhà vua băng hà do Trịnh Tùng sát hại, trong dân chúng ít người biết những chuyện này nên niên hiệu “năm Chính Trị thứ 15” vẫn được dùng rất lâu sau này.

Cha Cadière kết luận :

“Dù sao, cuốn gia phả của nhà họ Đỗ cho phép chúng ta nghĩ rằng : Mặc dù thời gian hay phá hoại và người ta hay nhầm lẫn, những tập di bút tư gia, không nói gì đến của các nhà thế gia mà kể cả những nhà dân tầm thường cũng chứa những kho tàng quý giá kể cả về phương diện lịch sử, gồm đủ các chi tiết về nước Việt Nam”. 

Ông viết thêm :

“Chúng ta hãy chúc mừng cho những người Việt Nam, lần đầu biết cởi bỏ cái tính sợ người ngoài để mắt đến, khư khư giữ kín những tập bút ký gia đình, chịu đem ra cống hiến vào lợi ích của toàn thể quốc gia”.

Lịch sử luôn có những bất ngờ thú vị như vậy.


Ngô Nhật ĐĂNG

Chương 15: Học giả Cadière và tập san Đô Thành Hiếu Cổ - Nam Kỳ Lục Tỉnh (google.com)

Facebook 

SẤM TRUYỀN CA

Tủ sách Nước Mặn


 LỜI MỞ ĐẦU MỤC ĐỒNG SỐ 21

HƯƠNG TRẦM DÂNG CHÚA



 "MÃO": KHÔNG đồng nghĩa "MÈO", cũng KHÔNG nghĩa là "THỎ"!



* Ý thức tự chủ: nước sông không phạm nước giếng. 

/1/ 

Theo thứ tự địa chi (gồm 12 chi): Tí 子, Sửu 丑, Dần 寅, Mão (Mẹo) 卯, Thìn 辰, Tị 巳, Ngọ 午, Mùi 未, Thân 申, Dậu 酉, Tuất 戌, Hợi 亥. 

Lưu ý (không ít người bị nhầm lẫn): chi Tí (子) không mang nghĩa là con chuột, mà ở đây con vật "cầm tinh" biểu tượng của chi Tí là con chuột (âm Hán-Việt là "thử" 鼠). 

Cũng rứa, chi Thìn (辰) không mang nghĩa là con rồng, mà ở đây con vật "cầm tinh" của chi Thìn là con rồng (âm Hán-Việt là "long" 龍). 

/2/ 

Tên của 12 chi là bất biến, không đổi. Khi kết hợp thiên can (gồm 10 can), ta có, năm 2023 gọi là "Quí Mão" (âm Hán-Viêt của 癸卯). Bên Tàu cũng vẫn là "Quí Mão" (tiếng Tàu Bắc Kinh đọc /Guǐ Mǎo/). 

Chi "Mão", ở VN dùng con vật cầm tinh là mèo; trong khi bên Tàu chi "Mão" lại dùng thỏ làm con vật cầm tinh. Tức "MÃO" không mang nghĩa "mèo" hoặc "thỏ" gì hết trơn, cùng gọi "MÃO" nhưng mỗi xứ dùng con vật "cầm tinh" khác nhau! 

/3/ 

Có điều này rất thú vị: 

- Tên gọi 12 chi (Tí, Sửu, ...., Tuất, Hợi) đều là âm Hán-Việt, NHƯNG khi gọi tên các con vật biểu tượng, người Việt GỌI BẰNG NAM ÂM (thuần Việt) là: Chuột, Trâu, Cọp, Mèo, Rồng, Rắn, Ngựa, Dê, Khỉ, Gà, Chó, Heo (Lợn).

- Nếu dùng âm Hán-Việt để gọi tên các con vật, theo thứ tự, sẽ phải là: Thử (鼠), Ngưu (牛), Hổ (虎), Miêu (貓), Long (龍), Xà (蛇), Mã (馬), Dương (羊), Hầu (猴), Kê (雞), Cẩu (狗), Trư (豬). 

NHƯNG người Việt chúng ta gọi "năm Chuột" chớ không gọi "năm Thử" / gọi "năm Rồng" chớ không gọi "năm Long" / gọi "năm Dê" chớ không gọi "năm Dương" / gọi "năm Gà" chớ không gọi "năm Kê" / gọi "năm Heo" (hoặc "năm Lợn" tùy phương ngữ Nam hoặc Bắc, đều thuần Việt) chớ không gọi "năm Trư". 

Chỉ duy có một con vật, cầm tinh của chi Dần, lẽ ra cần đọc theo Nam âm là "cọp" (hoặc "hùm", tùy phương ngữ, đều thuần Việt) cho đồng bộ hết thảy! Bỗng dưng... đọc theo âm Hán-Việt là "hổ". Sao kỳ cục dữ rứa? Sao không rập ràng nhứt quán chi hết? 

/4/ 

Có một số báo cho rằng người Việt chọn "cầm tinh" của chi Mão là mèo thì... không hợp lý. Họ lý luận ở bên Tàu (lẫn Hàn, Nhựt), cầm tinh là con thỏ. 

Họ giải thích: chi Mão (卯), người Tàu đọc là /mǎo/. Mặt khác, người Tàu đọc ký tự 貓 (âm Hán-Việt "miêu") cũng là /mǎo/ => Thành thử người Việt nhầm lẫn, tưởng bên Tàu "Mão" với "Miêu" cùng một thứ, nên chọn cầm tinh là "con mèo" luôn (!). 

Cho đến nay vẫn chưa có một giả thuyết nào đủ thuyết phục vê con vật cầm tinh khác nhau, "mèo" / "thỏ", cho cùng một chi Mão. 

/5/ 

Ồ, mắc gì phải lấy Tàu làm hệ qui chiếu? 

Quí bạn có biết: chi Mùi dùng con vật cầm tinh là "con dê", ở Tàu (ở VN cũng vậy); trong khi đó, Nhựt Bổn họ dùng "con cừu" làm vật biểu tượng đó đa! 

Mỗi xứ sở có cách dùng có thể khác nhau. Nước sông không phạm nước giếng, có sao đâu! 

Quí bạn còn nhớ, để chỉ việc lên ngôi vua, tiền nhân người Việt chúng ta bao đời đều dùng chữ "đăng quang". Trong khi người Tàu dùng "đăng cơ" (登基, đọc là /dēng jī/, người Nhựt dùng "tức vị" (即位 , đọc là /sokui/). 

Nước sông không phạm nước giếng. 

Mắc gì phải gọi theo Tàu là "đăng cơ"?