THƯƠNG NHỚ QUÊ NHÀ

Tăng Hoàng Phi


 Hình ảnh Thánh Giuse trong hội họa, xuất hiện nhiều và sớm, chủ yếu là ở các mảng tranh về chủ đề "Chúa giáng sinh", "Gia đình Thánh", và "Hành trình trốn sang Êdíptô". Trong những mảng tranh này, nhìn chung, Thánh Giuse luôn được mô tả như là một "nhân vật phụ" trong hình ảnh một người đàn ông nhân hậu, khiêm nhường và tận tụy... 


Tranh vẽ Thánh Giuse như là một "nhân vật chính" ra đời khá muộn. Mãi đến thế kỷ 17 mới có những bức tranh về Thánh Giuse đầu tiên. Một số ít, thể hiện hình ảnh Thánh Giuse đang bế Chúa Hài đồng Giêsu. Còn lại, phần lớn, xoay quanh chủ đề "Giấc mơ của Thánh Giuse".

Đây là hình ảnh tác phẩm thể hiện Thánh Giuse đang ẵm Chúa Hài đồng Giêsu được vẽ sớm nhất, nổi tiếng nhất đương thời, và được biết đến nhiều nhất cho đến tận ngày nay. 

"Thánh Giuse với Chúa hài đồng Giêsu" của Guido Reni, vẽ năm 1620, sơn dầu trên vải bố, khổ 126 x 101 cm, hiện đang được lưu giữ tại bảo tàng The Hermitage, St. Petersburg, Nga.

Tác phẩm này của Guido Reni (1575-1642), họa sĩ được xem là nổi tiếng nhất ở Ý trong thế kỷ XVII với phong cách Baroque tao nhã, mẫu mực. Trong tranh, Thánh Giuse được thể hiện đúng như trong Kinh Thánh, là một người đàn ông đã luống tuổi và là một người cha nhân từ. Chiếc áo choàng rộng của ông như đang bao bọc lấy Chúa Hài đồng. Và ánh sáng, như đang tỏa ra từ Chúa Hài đồng đã mang lại cho bức tranh một dáng vẻ thánh thiêng...

Nguyên Hưng

(Trích sổ tay "Nghệ thuật Công giáo")

 NỤ CƯỜI XA XĂM + GIẤC MƠ QUÊ NHÀ

Ngàn Thương + Phan Nam


 CÁI CHẾT ĐÃ TRỞ THÀNH "CAO GIÁ"

Sơn Ca Linh


TGPSG -- Tham dự Thánh lễ Chúa nhật II mùa Phục Sinh - cũng là Đại lễ 'Lòng Chúa thương xót' - chúng ta sẽ cùng suy niệm bài Tin Mừng dưới đây:

"Tám ngày sau, các môn đệ lại họp nhau trong nhà và có Tôma ở với các ông. Trong khi các cửa vẫn đóng kín, Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa mà phán: "Bình an cho các con". Đoạn Người nói với Tôma: "Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin". Tôma thưa rằng: "Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!" Chúa Giêsu nói với ông: "Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin" (Ga 20,26-28).

 Đoạn Tin Mừng này đã được minh hoạ thật sống động trong bức tranh sơn dầu “Thánh Tôma cứng lòng” của François-Joseph Navez:
- Đôi tay Tôma run rẩy chạm vào cạnh sườn Chúa;

- Ánh mắt Tôma đầy cảm xúc, nhìn vào vết thương ở cạnh sườn ấy như nhìn thấy chính trái tim của Chúa, và choáng ngợp hạnh phúc vì bắt gặp được cả một kho tàng vô giá của đời mình là Thánh Tâm Chúa Giêsu.

- Đôi cánh tay của Chúa Giêsu phục sinh giang ra như muốn mở hết con tim để trao ban trọn vẹn cho Tôma và cho toàn nhân loại.

Tác phẩm “Thánh Tôma cứng lòng” tuyệt diệu này được François-Joseph Navez vẽ theo trường phái Tân Cổ Điển.

Những bức tranh của trường phái này thường được sơn phết một cách tỉ mỉ, với bề mặt thật mịn màng, nhằm giấu đi những vệt màu của họa sĩ. Chúng làm cho người xem có cảm tưởng như đang nhìn xuyên qua khung tranh mà đi vào thế giới thật.

Những nhân vật trong tranh được vẽ như hình chụp, và còn đẹp hơn hình chụp rất nhiều, với bố cục hoàn hảo, mầu sắc hài hoà và những xúc cảm của các nhân vật được bộc lộ rõ nét qua những cử chỉ thật chuẩn mực, với những cơ bắp được vẽ rất đúng với khoa giải phẫu học.

Đặc biệt là những nếp áo được hoạ lại thật công phu như đang chuyển động theo từng động tác của nhân vật (xem tranh "Tàn sát trẻ thơ ở Bêlem” của François-Joseph Navez dưới đây).

Hoạ sĩ François-Joseph Navez - tác giả của bức tranh “Thánh Tôma cứng lòng” trên đây - sinh năm 1787 tại Bỉ. Là con của một phó thị trưởng, năm 16 tuổi ông bắt đầu học vẽ tại trường Hội Hoạ Hàn Lâm của Bỉ và lập tức nổi tiếng với nhiều giải thưởng.

Ông từng học hỏi với Jacques-Louis David, một hoạ sĩ tân-cổ-điển lừng danh, đồng thời mê say nét vẽ của Jean-Auguste-Dominique Ingres. Tranh của ông đậm nét tân-cổ-điển tả thực, và về sau, có thêm tính cách của trường phái lãng mạn.

Ông là một hoạ sĩ thành công, có phòng triển lãm thường trực, đạt được nhiều giải nghệ thuật. Năm 1830, ông được chọn làm giám đốc trường Hội Hoạ Hàn Lâm của Bỉ và từ chức năm 1859.

Về già bị lãng tai, ông thường trao đổi với thân hữu bằng thư từ. Những lá thư này đã trở thành nguồn thông tin phong phú về sinh hoạt hội hoạ giữa thế kỷ 19. Ông qua đời năm 82 tuổi.



Vi Hữu (TGPSG)

Nguồn: Encyclopedie de Larouse, Web Gallery of Art, Wikipedia, Designs.vn

 NGƯỜI CHA CỦA THẰNG ĐEN

Loan Mary



"ĐỪNG CHẠM VÀO TA” (NOLI ME TANGERE)- MỘT CHỦ ĐỀ QUAN TRỌNG VÀ ĐƯỢC YÊU THÍCH TRONG NGHỆ THUẬT CÔNG GIÁO 



Chúa Giêsu hiện ra với Maria Mađalêna sau sự Phục sinh để an ủi bà. Lúc đầu, bà nghĩ Ngài là một người làm vườn; khi bà nhận ra Ngài, Ngài bảo bà đừng chạm vào Ngài - “noli me tangere” (đừng chạm vào ta)-như đã nói trong các sách Phúc âm (Gioan 20: 14-18). Ở những nơi khác, Kinh Thánh ghi lại rằng Chúa Giêsu sẽ sớm về trời và ban Đức Thánh Linh xuống cho những người theo Ngài: Ngài không muốn mọi người bám vào sự tồn tại vật chất của Ngài... 

Trong tranh, Maria Mađalêna vừa nhận ra Chúa Giêsu qua giọng nói khi ngài gọi "Maria!" Titian thể hiện sự trào dâng cảm xúc khiến Maria Mađalêna khụy xuống đất, và bất ngờ, khi Chúa Giêsu lùi lại nói “đừng chạm vào ta” (Noli me tangere). Họa sĩ đã bỏ qua hầu hết các chi tiết mà theo truyền thống giúp xác định bối cảnh: không có lăng mộ, không có thiên thần báo trước, không có vầng hào quang, không có dấu đinh trên tay Chúa phục sinh. Titian chỉ đưa hình ảnh cái cuốc vào tay Chúa Giêsu, để "giải thích" ấn tượng nhầm lẫn đầu tiên của Maria về Ngài (Bà nhầm Ngài với một người làm vườn). Để nhấn mạnh sự sống lại của Chúa, họa sĩ đã vẽ thân thể Ngài chỉ được che phủ bởi tấm vải liệm khi Ngài được chôn cất-một tấm vải liệm có màu trắng tinh tuyền, kết nối với dòng chảy màu đỏ của áo Đức thánh nữ Maria. Họa sĩ nhấn mạnh sự căng thẳng trong cử động của người phụ nữ và sự gần gũi của hai người mà tay phải của họ sẽ chạm vào nếu Chúa Giêsu không lùi lại trong một động tác từ chối tinh tế được thể hiện bằng độ nghiêng trìu mến của Ngài cúi xuống trước Maria Mađalêna... 

Bầu không khí trong tranh là bầu không khí đối thoại giữa người tin yêu và người được tin yêu. Tại đây, bà Maria Mađalêna tìm thấy người mình yêu quý và ngay tức thì, vừa vui mừng vừa sửng sốt, khi nghe nói "đừng chạm vào ta"... 

Trong tranh, Chúa Giêsu như đang bước về phía trước-phía chúng ta-và đó, là một TIN MỪNG! 

Trong nghệ thuật Công giáo, "Noli me tangere” là một chủ đề quan trọng, thu hút sự chú ý và hứng thú sáng tác của nhiều họa sĩ tên tuổi. Và hầu hết, đều hướng đến thông điệp: Đừng tìm kiếm Thiên Chúa Phục Sinh nơi thân xác trần tục. Bởi, người ta chỉ có thể tìm thấy Ngài trong tình yêu, và bằng tình yêu...!

Bức “Noli me tangere” này được Titian (1490-1576) vẽ năm 1514-lúc đó, ông mới 24 tuổi. Từ thế kỷ 19, tranh đã nằm trong bộ sưu tập của Phòng trưng bày Quốc gia ở London.

“Noli me Tangere” by Antonio da Correggio, c. 1525

By Alexander Ivanov, 1835

Touch Me Not (Noli me tangere) by James Tissot


(Trích từ sổ tay “Nghệ thuật Công Giáo”-2011)


 MẶC BẮC, HỌ ĐẠO CỔ NƠI MIỀN SÔNG NƯỚC

Chung Thanh Huy


 BÌNH ĐỊNH VỚI PHONG TRÀO DẠY VÀ HỌC CHỮ "QUẤC NGỮ"

Nguyễn Thanh Quang


 “CHÚA GIÊSU TRONG VƯỜN CÂY DẦU”-MỘT TUYỆT TÁC CỦA EUGÈNE DELACROIX (1798-1863)

Delacroix, được coi là hoạ sĩ vĩ đại nhất của thời kỳ Lãng mạn ở Pháp, có lẽ được biết đến nhiều nhất với bức tranh “Nữ thần Tự do dẫn dắt nhân dân-Liberty Leading the People” (1830) vô cùng nổi tiếng.



Chịu ảnh hưởng bởi tư tưởng “Thế kỷ ánh sáng”, thể hiện sự đề cao tự do, “cái tôi cá nhân”, chủ trương tách rời niềm tin tôn giáo khỏi tri thức con người, và có nhiều phản ứng chống đối cực đoan hàng Giám mục Công giáo ở Pháp đương thời v.v..., nên Delacroix thường được hiểu như là “bạn của Voltaire”-một người có khuynh hướng hoài nghi, vô thần...

Với các nhà nghiên cứu nghệ thuật công tâm và cẩn trọng, thì cái “thường được hiểu” đó chỉ là định kiến, thậm chí là xuyên tạc. Riêng số lượng 120 bức tranh và hơn 220 bức vẽ mô tả các chủ đề tôn giáo như “Pietà” hoặc “Chúa Kitô trên cây thánh giá” v.v... mà hầu hết đều có giá trị như sự khởi đầu cho phong cách nghệ thuật tôn giáo hiện đại đã chứng minh thực tế hoàn toàn ngược lại. Qua tranh, có thể nhận thấy sự đồng cảm và quan tâm lâu dài của Delacroix đối với tôn giáo. Ông không chỉ tìm thấy trong tôn giáo những câu chuyện và hình tượng để thúc đẩy trí tưởng tượng của mình-như nhiều người đã nói nhiều như vậy.

Năm 1885, tức 22 năm sau khi nghệ sĩ qua đời, nhà phê bình nghệ thuật Ernest Chesneau đã kết thúc tiểu luận công phu của mình bằng nhận định: “Khi một người xem xét các chủ đề tôn giáo mà Delacroix đã  thực hiện trong suốt cuộc đời vẽ tranh của mình, trước con số khổng lồ và giá trị thẩm mỹ cũng như tư tưởng, người ta phải kết luận rằng, Delacroix không chỉ mơ mộng mà còn có một tâm hồn tôn giáo. Các bức tranh tôn giáo của Delacroix đã bộc lộ các trải nghiệm thẩm mỹ như một dấu hiệu của tâm linh. Cụ thể hơn, tư tưởng của ông có dấu hiệu chịu ảnh hưởng bởi các nền thần học tiến bộ xuất phát từ cuộc phục hưng tôn giáo nhanh chóng một cách đáng kinh ngạc vào những thập kỷ đầu của thế kỷ 19.”

Trong tất cả các tranh chủ đề tôn giáo của Delacroix, nổi tiếng nhất, là bức “Chúa Giêsu trong vườn cây dầu-Christ in the Garden of Olives” vẽ năm 1824-lúc đó ông mới 26 tuổi. Đây cũng là bức tranh chủ đề tôn giáo có kích thước lớn nhất của ông-294cm x 362 cm. Qua thời gian, bức tranh này, đã được xem là một tuyệt tác của Delacroix, của nghệ thuật Công giáo thời Lãng mạn nói chung.

Chủ đề “Chúa Giêsu trong vườn cây dầu” là chủ đề quan trọng trong nghệ thuật Công giáo, đã hấp dẫn rất nhiều hoạ sĩ tham gia thể hiện, trong đó có nhiều danh họa, và đã có rất nhiều tác phẩm thực sự xuất sắc.

*

Khung cảnh của “tường thuật” này thật là đặc biệt: Chúa Giêsu cùng các môn đệ đi đến vườn Cây Dầu sau Bữa Tiệc Ly. Con đường đến vườn Cây Dầu, được cảm nhận, là con đường đến gần Sự Khổ Nạn và cái chết của Chúa Giêsu. Người đến đó để cầu nguyện. Khác với mọi lần chỉ muốn một mình “nơi thanh vắng”, lần này, trong vườn Cây Dầu, Người đã bảo Thánh Phêrô, Giacôbê và Gioan ở gần hơn với Người. Gần hơn, nhưng cả ba vị Môn đồ đều ngủ vì mệt mỏi. Chúa Giêsu cũng vẫn cầu nguyện “một mình”-với Chúa Cha. Theo Thánh Sử Marcô: “Người đem ông Phêrô, ông Giacôbê và ông Gioan đi với Người. Người bắt đầu cảm thấy đau buồn và lo sợ. Người bảo ba ông, ‘Linh hồn Thầy buồn rầu đến nỗi chết được. Các con hãy ở lại đây và tỉnh thức.’” (14,33-34). Những lời mà Chúa Giêsu nói với ba môn đệ, cho thấy Người cảm thấy sợ hãi và đau khổ thế nào trong “Giờ” này, sự cô đơn cuối cùng và sâu thẳm mà Người trải qua trong giờ phút mà kế hoạch của Thiên Chúa đang được thực hiện. Sự sợ hãi và thống khổ của Chúa Giêsu gồm tóm tất cả sự kinh hoàng của con người trước cái chết của mình, sự chắc chắn của việc không thể tránh được nó và nhận thức được sức nặng của sự dữ đang ăn mòn sự sống của chúng ta.

Sau khi yêu cầu ba môn đệ ở lại đó canh thức trong cầu nguyện, “chỉ một mình” Chúa Giêsu hướng về Chúa Cha. Thánh Sử Marcô kể lại rằng “Đi xa hơn nữa, Người sấp mình xuống đất mà cầu xin cho mình khỏi phải qua giờ ấy, nếu có thể được” (Mc 14:35). Chúa Giêsu sấp mình xuống đất, là một tư thế cầu nguyện diễn tả sự vâng phục Thánh Ý của Thiên Chúa, tin tưởng phó thác cho Thiên Chúa. Rồi Chúa Giêsu xin Chúa Cha rằng, nếu có thể được, thì xin cho Ngưởi qua khỏi giờ này. Đó không chỉ là sự sợ hãi và thống khổ của một người trước khi chết, nhưng còn là một biến động nội tâm của Con Thiên Chúa, Đấng thấy sức nặng của sự dữ khủng khiếp mà Người phải tự mình gánh lấy để thắng vượt nó, để tước đi quyền lực của nó.

Chúa Giêsu tiếp tục cầu nguyện: “Abba, Lạy Cha! Mọi sự đều có thể được đối với Cha, xin cất chén này khỏi con. Nhưng xin đừng theo điều con muốn, mà theo điều Cha muốn!” (Mc 14:36). 

Trong lời khẩn xin này, có ba đoạn được tỏ lộ. Trước hết có hai dụng ý trong lời mà Chúa Giêsu thưa cùng Thiên Chúa:“Abba, Lạy Cha” (Mc 14:36 a). Chúng ta biết rằng Abba là từ Aram được một em bé dùng để gọi cha nó, và như thế nó diễn tả mối liên hệ của Chúa Giêsu với Thiên Chúa Cha, một mối liên hệ ân cần, yêu thương, tin tưởng và phó thác. Trong phần giữa của lời cầu khẩn là yếu tố thứ hai: ý thức về sự toàn năng của Chúa Cha – “Mọi sự đều có thể được đối với Cha” – giới thiệu một lời cầu xin mà trong đó một lần nữa bày tỏ thảm kịch của ý chí nhân loại của Chúa Giêsu khi trực diện với cái chết và sự dữ: “xin cất chén này khỏi con”. Nhưng chính câu nói thứ ba của lời cầu nguyện của Chúa Giêsu là câu nói quyết định, trong đó ý chí nhân loại hoàn toàn tuân theo ý chí Thiên Chúa. Thực ra, Chúa Giêsu kết luận bằng cách mạnh mẽ thưa rằng: “Tuy nhiên, xin đừng làm theo điều con muốn, mà làm theo điều Cha muốn.” (Mc 14:36 c).

*

Hầu hết các tranh vẽ về chủ đề này trước Delacroix, đều cố gắng thể hiện đầy đủ các tình tiết gay cấn câu chuyện trong Kinh Thánh, và nhấn mạnh vào sự cô đơn, thống khổ đến cùng cực của Chúa Giêsu. Bên cạnh, ba môn đồ đang ngủ mê man, từ phía xa, Giuđa đang dắt quân dữ đến bắt Chúa. Các Thiên thần phải đến nâng đỡ, vỗ về Chúa Giêsu. Cách thể hiện như vậy, khiến người xem nhói lòng, phải “thức tỉnh”...

Phía sau, là hình ảnh Giuđa dắt quân dữ đến bắt Chúa Giêsu...


Dalecroix khác hẳn. Ông chọn thời khắc Chúa Giêsu đã kết luận “Tuy nhiên, xin đừng làm theo điều con muốn, mà làm theo điều cha muốn”, và nhấn mạnh vào niềm tin: chỉ trong việc làm cho ý muốn của mình phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa, thì con người đạt được sự cao cả đích thực của mình, trở thành “thần linh”; chỉ khi ra khỏi chính mình, chỉ khi ở trong lời “xin vâng” với Thiên Chúa, thì ý muốn được hoàn toàn tự do mới được hiện thực. Chính trong sự tín thác, Chúa Giêsu đã tự cứu chuộc cái phần con người-vốn dĩ yếu đuối-nơi mình. Qua việc chuyển ý muốn nhân loại sang ý muốn của Thiên Chúa, con người đích thực được phục sinh, và vì thế nhân loại được cứu chuộc...

Trong tư thế vươn dậy, Chúa Giêsu đã vung tay xua đuổi các Thiên thần  đang thể hiện các cảm xúc u sầu, đau xót-cũng yếu đuối như con người-bên cạnh...

Cách thể hiện với tư tưởng như vậy, Delacroix đã hiện đại hoá chủ đề này trong nghệ thuật Công giáo. Và chính vì lẽ đó, càng về sau, người ta phải thừa nhận, đây là một tuyệt tác mà Delacroix đóng góp cho nghệ thuật Công giáo. Và xa hơn, chứng minh sự tồn tại một đời sống tâm linh tôn giáo thuần thành nơi chính Delacroix...

Delacroix vẽ bức tranh này cho nhà thờ thánh Phaolô ở Paris, và vẫn còn được lưu giữ ở đó cho đến ngày nay.

“The Good Samaritan” vẽ năm 1849, cũng là một bức tranh chủ đề tôn giáo rất nổi tiếng của Delacroix...

Bức “Liberty Leading the People” vẽ năm 1830 vô cùng nổi tiếng của Delacroix...



NGUYÊN HƯNG 

(Trích từ “Nghệ thuật Công giáo”)


LỄ TẤN PHONG ĐỨC CHA GALIBERT LỢI 

TẠI GÒ THỊ NĂM 1879

Lm. Phaolô Nguyễn Minh Chính


Nhớ lại và sống lại cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu

 Tại một hội nghị cách đây vài năm, tôi chịu trách nhiệm trưng bày những cuốn sách dành cho thiếu nhi. Suốt cả buổi chiều, các bậc phụ huynh ghé vào mua sách cho con em mình.

Đôi khi cha mẹ sẽ bảo trẻ chọn bất kỳ cuốn sách nào trên bàn nhưng chỉ chọn một cuốn. Những đứa trẻ nhỏ nhất chắc hẳn đã chọn cùng một cuốn sách: Các chặng đàng Thánh giá. Tôi đã nghĩ rằng hình ảnh Chúa Giêsu bị đóng đinh trên trang bìa sẽ làm chúng sợ hãi nhưng trong sự đơn sơ, ngây thơ của chúng, chúng có thể thấy ngoài sự kinh hoàng của thập giá là tình yêu được thể hiện.

Đó là tình yêu mà chúng ta tôn vinh khi chúng ta đi viếng các chặng đàng Thánh giá. Chúng ta không chỉ tưởng niệm những sự kiện xảy ra cách đây hai nghìn năm. Chúng ta đang bước vào cuộc khổ nạn của Chúa Kitô để cảm nghiệm cách Người đã đổ ra sự sống và tình yêu của mình để tha tội cho chúng ta.

Nguồn gốc các chặng đàng Thánh giá. 

Các chặng đàng Thánh giá dường như bắt nguồn từ việc thực hành đạo đức của những người hành hương đến Đất Thánh, những người đã đến thăm các địa điểm của cuộc đời, sự đau khổ, cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu. Trong số các địa điểm khác, những người hành hương sẽ đến thăm Golgotha ​​và ngôi mộ, cả hai đều sớm được trông nom bởi Nhà thờ Mộ Thánh. Những người hành hương này nhận thấy rằng có một thứ gì đó có sức mạnh thực sự chạm vào nơi Chúa Giêsu chết và sống lại.

Trên thực tế, chúng ta có một bản tường thuật của một nữ tu người Tây Ban Nha tên là Egeria, người đã đến thăm Đất Thánh vào thế kỷ thứ tư sau công nguyên. Nữ tu này mô tả phụng vụ được cử hành tại Thánh địa. Chẳng hạn vào Chủ nhật, vị chủ tế sẽ đọc câu chuyện Kinh thánh về sự phục sinh của Chúa. Nữ tu viết "Khi bài đọc được bắt đầu, có rất nhiều người rên rỉ và rên rỉ với rất nhiều nước mắt đến nỗi cả những người cứng rắn nhất cũng có thể cảm động rơi nước mắt vì Chúa đã chịu đựng những điều như vậy cho chúng ta." Tương tự như vậy, nữ tu mô tả vào ngày Thứ Sáu Tuần Thánh "cảm xúc thể hiện và sự thương tiếc của tất cả mọi người trong mỗi lời dậy bảo và lời cầu nguyện thật tuyệt vời; vì không có người lớn hay nhỏ nào vào ngày đó, trong suốt ba giờ đó, không than khóc nhiều hơn có thể hình dung rằng Chúa đã phải gánh chịu những điều đó cho chúng ta. "

 Thực hành này về việc kỷ niệm cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu được coi trọng đến mức các nhà thờ và tu viện ở châu Âu bắt đầu thiết lập các mô phỏng của thánh địa. Như vậy, những người không có khả năng chi trả cho chuyến hành hương dài và gian khổ đến Đất Thánh cũng có thể trải nghiệm một chuyến viếng thăm tâm linh ở đó.

 Hai sự kiện đã thúc đẩy thêm lòng sùng kính này. Thứ nhất là các cuộc Thập tự chinh. Nhiều người đã du lịch đến Đất Thánh và nhiều người khác đã nghe về những chuyến đi của họ và khao khát được trải nghiệm những gì họ đã mô tả.

Sự kích thích thứ hai xảy ra vào năm 1342 khi các đền thờ trên khắp Đất Thánh được giao cho các Tu sĩ Dòng Phanxicô trông coi. Họ chuẩn bị chỗ ở thích hợp và có được những ân xá đặc biệt dành cho những người hành hương để chuyến viếng thăm của họ trở nên thiêng liêng nhất có thể. Họ cũng truyền bá lòng sùng kính đối với cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu khắp thế giới Kitô giáo.



Các tu sĩ dòng Phanxicô và ảnh hưởng của họ. 

Các tu sĩ dòng Phanxicô luôn có một tình yêu lớn lao đối với bất cứ điều gì liên quan đến cuộc đời và cái chết của Chúa Giêsu. Thánh Phanxicô đã giúp phổ biến máng cỏ Giáng sinh khi ông dựng một khung cảnh máng cỏ sống động ở Greccio Ý vào năm 1223. Ông cũng thích suy niệm về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, thậm chí đã viết Nghi thức về cuộc khổ nạn để tưởng nhớ. Phanxicô đã nhìn thấy trong sự ra đời và cái chết của Chúa Giêsu là hai thời điểm then chốt mà tính con người và sự khiêm nhường của Chúa Giêsu được thể hiện rõ ràng nhất. Ông nhìn thấy trong đó đỉnh cao của việc Chúa Giêsu từ bỏ cho Thiên Chúa, một sự từ bỏ của tình yêu hoàn toàn.

Thánh Phanxicô đã cảm động trước tình yêu này đến nỗi nó đã trở nên hữu hình. Khi ông ở Greccio, ông đã bùng cháy với lòng biết ơn đến nỗi những người xung quanh nhìn thấy ông ôm hài nhi Giêsu trên tay mặc dù không có đứa trẻ nào có mặt lúc đó. Tương tự như vậy, khi ở trên Núi Alvernia vài tháng sau, Phanxicô nhận dấu thánh, chính những vết thương của Chúa Giêsu trên da thịt của ông, do đó làm cho cơ thể ông trở thành một ký ức sống động của cuộc khổ nạn. Người yêu, Thánh Phanxicô, đã đến giống như người được yêu.

Ngay từ những ngày đầu thành lập, các tu sĩ dòng Phanxicô đã coi đó là nhiệm vụ của họ để nuôi dưỡng lòng sùng kính đối với các chặng đàng Thánh giá và máng cỏ Giáng sinh. Lúc đầu, các các chặng đàng Thánh giá mà họ xây dựng nằm bên ngoài nhà thờ, nhưng đến giữa thế kỷ XVII, đưa vào bên trong trong. Trên thực tế, các tu sĩ Phanxicô đã được xác định với lòng sùng kính này đến nỗi cho đến gần đây, họ là những người duy nhất được đặc ân làm phép cho các chặng đàng mới được xây dựng.

Cầu nguyện với những chặng đàng Thánh giá như thế nào.

 Có nhiều cách khác nhau để cầu nguyện với các chặng đàng Thánh giá. Nhiều giáo xứ cử hành việc này như một cộng đoàn, đặc biệt là trong Mùa Chay. Trong khi đau khổ có xu hướng tách biệt và cô lập chúng ta, thì việc tưởng niệm Chúa Giêsu chịu đau khổ như một cộng đồng có xu hướng gắn kết chúng ta với nhau. Nó làm cho chúng ta trở nên trọn vẹn hơn với Ngài và với nhau.

Tất nhiên, có những lúc chúng ta tự cầu nguyện với các chặng đàng Thánh giá nhiều hơn như một sự suy gẫm trong im lặng. Cầu nguyện các chặng đàng Thánh giá theo cách này có thể là một trải nghiệm thân mật sâu sắc, cho chúng ta cảm giác rằng chúng ta đang đi bên cạnh Chúa Giêsu trên đường đến thập giá của Ngài.

Bản thân của việc đi từ chặng đàng này đến chặng đàng khác cũng là một hình thức cầu nguyện. Theo một nghĩa nào đó, chúng ta đang cầu nguyện bằng đôi chân của mình. Chúng ta thường chỉ cầu nguyện với tâm trí của mình. Nhưng việc đi từ chặng đàng này sang chặng đàng khác giúp cho lời cầu nguyện của chúng ta trọn vẹn hơn khi chúng ta đưa cơ thể phù hợp với tâm trí, tương tự như cách Chúa Giêsu đã làm trên đường đến Golgotha ​​và cách mà Phanxicô đã làm khi nhận được dấu thánh.

Nhớ lại và sống lại. 

Điều quan trọng cần biết là khi chúng ta cầu nguyện với các chặng đàng Thánh giá, chúng ta không chỉ nhớ lại lịch sử cổ đại. Người Do Thái tin rằng bằng cách kể lại một sự kiện trong quá khứ, chúng ta có thể phần nào tham gia vào sự kiện đó. Đây được gọi là sự tưởng niệm, và nó là cơ sở để chúng ta hiểu biết về Thánh Lễ. Tại Tiệc Thánh, chúng ta hiện diện trong nhà thờ, nhưng chúng ta cũng có mặt bằng cách nào đó trong bữa Tiệc ly, trước thánh giá, và tại ngôi mộ trống. Chúng ta vượt qua thời điểm hiện tại của mình và trải nghiệm một cách thần bí một chút về sự vĩnh hằng.

Đây cũng là điều chúng ta làm khi cầu nguyện với các chặng đàng. Chúng ta không chỉ kể câu chuyện mà chúng ta đang tham gia vào đó. Tình yêu của Chúa Giêsu dành cho chúng ta như được thể hiện qua các chặng đàng và tình yêu của chúng ta dành cho Ngài đã thu hẹp khoảng cách giữa những gì xảy ra khi đó và cuộc sống của chúng ta ngày nay. Chúng ta thấy Chúa Giêsu ngã xuống dưới sức nặng của thập giá và kinh hoàng về nỗi đau của Ngài. Chúng ta trở thành Veronica và đề nghị lau mặt cho Ngài. Chúng ta sát cánh cùng Maria khi Maria chứng kiến ​​người con trai yêu quý của mình qua đời. Không còn là những người ngoài cuộc không quan tâm mà chúng ta giống như Phanxicô trở nên kết hợp với Chúa Kitô.

Cuộc khổ nạn của chúng ta. 

Chúa Giêsu bảo các môn đệ vác thập giá mà theo Ngài và các chặng đàng thánh giá cho chúng ta cơ hội để làm điều đó. Chúng ta chết cho chính mình khi chúng ta suy ngẫm về tội lỗi của mình và nhớ rằng Chúa Giêsu đã chết để chúng ta được tha thứ. Khi nhớ đến những đau khổ của Chúa Giêsu, chúng ta cũng có thể nhớ lại cách chúng ta đã phạm tội với Thiên Chúa và với nhau.

Khi nhớ lại cách Chúa Giêsu bị xét xử, chúng ta có thể tự hỏi liệu mình có đánh giá sai người khác hay không. Khi nhớ lại ba lần ngã của Chúa Giêsu, chúng ta có thể nhớ lại những lần chúng ta đã rơi vào tội lỗi cũng như những lần chúng ta chứng kiến ​​những người khác sa ngã và không giúp đỡ họ.

 Chúng ta cũng vác thập giá của mình trên các chặng đàng bằng cách kết hợp những đau khổ của chúng ta với những đau khổ của Chúa Giêsu. Đau khổ thường khiến chúng ta cảm thấy như thể chúng ta đang ở trên một cây thập giá mà không có ai giúp đỡ chúng ta. Nhưng trong các chặng đàng Thánh giá, chúng ta được nhắc nhở ai ở phía bên kia của thập giá: Chúa Giêsu, người luôn ở với chúng ta.

Các chặng đàng Thánh giá cũng có thể khuyến khích chúng ta vượt qua thử thách để sống đức tin của mình theo cách sâu sắc hơn. Chúng giúp chúng ta can đảm từ chối những điều ngăn cách chúng ta khỏi tình yêu của Thiên Chúa, để được đóng đinh vào thập giá đối với thế gian để chúng ta có thể cho đi chính mình đối với Chúa và những người khác một cách trọn vẹn hơn.

Cuối cùng, các chặng đàng Thánh giá cung cấp cho chúng ta cơ hội để được liên đới với những đau khổ của thế giới. Khi cầu nguyện các chặng đường Thánh giá, chúng ta có thể thực hành khổ nạn - nghĩa là "cùng chịu đau khổ với." Chúng ta có thể tự gánh lấy những đau khổ của người   khác để họ không còn phải gánh nặng một mình nữa.

Không bao giờ giống nhau nữa. 

Có những sự kiện nhất định trong cuộc sống của chúng ta sẽ thay đổi chúng ta mãi mãi. Cái chết của một người thân yêu, một chiến thắng kỳ diệu, một nhận thức mới – tất cả những điều này để lại một dấu ấn không thể phai mờ trong chúng ta. Các chặng đàng Thánh giá là một sự kiện như vậy. Làm sao cuộc sống có thể giống như vậy sau khi chúng ta đã trải nghiệm quá nhiều tình yêu? Làm sao chúng ta có thể nhìn chính mình hoặc thế giới xung quanh bằng cùng con mắt sau khi nhìn Đấng đã bị đâm thủng vì tội lỗi của chúng ta? Chúa Giêsu yêu thương chúng ta đến chết theo đúng nghĩa đen. Làm sao chúng ta có thể không tràn đầy lòng biết ơn và sẵn sàng sống trong tình yêu thương đó?

Tác giả: LM Jude Winkler – Lại Thế Lãng chuyển ngữ

https://thanhlinh.net/node/154417

 CHÚA GIÊSU CHẾT KHI NÀO?


 Hằng năm, chúng ta cử hành Mùa Chay, rồi cử hành Tuần Thánh, đặc biệt là Thứ Sáu Tuần Thánh kính nhớ Cuộc Tử Nạn của Chúa Giêsu, và Đại Lễ Phục Sinh kính mừng Chúa Giêsu sống lại. Chúng ta biết rằng sự kiện lịch sử này đã xảy ra tại Giêrusalem hồi thế kỷ I.



Sự kiện này khiến Chúa Giêsu khác biệt với các thần ngoại giáo trong thần thoại, những người sống ở đâu và làm gì thì chẳng ai biết. Vậy làm sao chúng ta xác định thời gian chính xác về việc Chúa Giêsu chịu chết? Có thể chứ. Và đây là các chứng cớ…


1. THƯỢNG TẾ CAI-PHA

Các Phúc Âm cho biết rằng Chúa Giêsu bị đóng đinh theo chủ mưu xúi bẩy của thượng tế tên là Cai-pha. (Mt 26:3-4, Ga 11:49-53) Các nguồn khác cho biết rằng ông này là thượng tế từ năm 18 tới năm 36 sau công nguyên, thế nên Chúa Giêsu chịu chết trong thời gian đó. Nhưng chúng ta còn có thể biết rạch ròi hơn vậy.

2. TỔNG TRẤN PHONG-XI-Ô PHI-LA-TÔ

Các Phúc Âm đồng ý rằng Chúa Giêsu bị đóng đinh theo lệnh của Phong-xi-ô Phi-la-tô. (Mt 27:24-26, Mc 15:15, Lc 23:24, Ga 19:15-16) Các nguồn khác cho biết rằng khi đó Phi-la-tô làm tổng trấn Giu-đê (năm 26 tới năm 36 sau công nguyên), do đó chúng ta có thể giảm bớt vài năm. Nhưng làm sao chúng ta biết đúng ngày và năm?

3. SAU NĂM THỨ 15 CỦA TI-BÊ-RI-Ô XÊ-DA


Phúc Âm theo Thánh Lu-ca cho biết thời gian sứ vụ của Thánh Gioan Tẩy Giả khởi đầu: Năm thứ 15 triều đại của Tiberiô Xê-da. (Lc 3:1-2) Như vậy chúng ta có thời gian rõ ràng: Năm 29 sau công nguyên.

Cả bốn Phúc Âm đều mô tả sứ vụ của Đức Kitô bắt đầu sau khi ông Gioan Tẩy Giả bắt đầu sứ vụ, (Mt 3, Mc 1, Lc 3, Ga 1) nghĩa là chúng ta có thể bỏ qua vài năm. Cái chết của Chúa Giêsu phải ở trong vòng 7 năm: Giữa các năm 29 và 36 sau công nguyên.

4. CHÚA GIÊSU CHẾT NGÀY THỨ SÁU

Cả bốn Phúc Âm đều đồng ý rằng Chúa Giêsu bị đóng đinh vào ngày Thứ Sáu, (Mt 27:62, Mc 15:42; Lc 23:54; Ga 19:42) ngay trước ngày Sa-bát, ngay trước ngày thứ nhất trong tuần. (Mt 28:1, Mc 16:2, Lc 24:1, Ga 20:1)

Chúng ta biết đó là Thứ Sáu vì nó được nói tới là “ngày chuẩn bị” – nghĩa là ngày mà người Do Thái chuẩn bị những gì cần cho ngày Sa-bát, vì họ không thể làm việc gì vào ngày này. Như vậy, đồ ăn được nấu trước và chuẩn bị những thứ cần thiết khác.


Bộ sách Bách Khoa Do Thái nói: Thứ Sáu, trước ngày Sa-bát, gọi là “Ereb Shabbat” (hôm trước ngày Sa-bát). Thuật ngữ “ereb” có hai nghĩa: “chiều tối” và “sự hỗn hợp.” (Ex. xii. 38) “Ereb Shabbat” bao hàm ngày vào chiều tối khi ngày Sa-bát bắt đầu, hoặc ngày mà đồ ăn được chuẩn bị cho cả ngày hiện tại và những ngày sau, nghĩa là sau ngày Sa-bát.

Ý tưởng về sự chuẩn bị được diễn tả bằng tiếng Hy Lạp là “paraskeué,” do Josephus đưa ra (“Ant.” xvi. 6, § 2) đối với ngày đó (so sánh với Mc 15:42; Lc 23:54; Mt 27:62; Ga 19:42). Trong Yer. Pesaḥim iv. 1, ngày này được gọi là “Yoma da-'Arubta” (ngày chuẩn bị). Điều đó loại trừ 6 ngày trong tuần, nhưng vẫn có vài ngày Thứ Sáu khác trong những năm 29 và 36 sau công nguyên. Làm sao chúng ta có thể biết năm nào?

5. THỨ SÁU NGÀY LỄ VƯỢT QUA

Các Phúc Âm cũng đồng ý rằng Chúa Giêsu bị đóng đinh trùng với Lễ Vượt Qua hằng năm. (Mt 26:2, Mc 14:1, Lc 22:1, Ga 18:39) Ở đây chúng ta gặp sự phức tạp, vì các Thánh Mát-thêu, Mác-cô và Lu-ca đều mô tả Bữa Tiệc Ly vào Thứ Năm Tuần Thánh là bữa ăn mừng Lễ Vượt Qua. (Mt 26:19, Mc 14:14, Lc 22:15) Điều đó cho thấy rằng Thứ Sáu Tuần Thánh là ngày sau Lễ Vượt Qua.

Tuy nhiên, khi mô tả buổi sáng Thứ Sáu Tuần Thánh, Thánh Gioan cho biết rằng người Do Thái chưa ăn Lễ Vượt Qua, họ dẫn độ Chúa Giêsu từ nhà Cai-pha tới dinh của Phi-la-tô (Praetorium): Người Do Thái điệu Đức Giêsu từ nhà ông Cai-pha đến dinh tổng trấn. Lúc đó trời vừa sáng. Nhưng họ không vào dinh kẻo bị nhiễm uế mà không ăn Lễ Vượt Qua được. Vì thế, tổng trấn Phi-la-tô ra ngoài gặp họ và hỏi: “Các người tố cáo ông này về tội gì?” (Ga 18:28-29)

Điều đó cho thấy rằng Lễ Vượt Qua bắt đầu lúc mặt trời lặn của ngày Thứ Sáu. Có nhiều cách giải quyết vấn đề này. Chẳng hạn, một số người cho rằng Chúa Giêsu và các môn đệ dùng lịch khác người Do Thái, và chúng ta biết rằng có những lịch khác nhau được dùng trong Do Thái giáo hồi thế kỷ I.

Cũng có thể Chúa Giêsu mừng Lễ Vượt Qua trước với các môn đệ. Nghĩa là họ đã tin Thầy Giêsu là Đấng Mê-si-a, Con Thiên Chúa. Nếu Ngài nói: “Chúng ta mừng Lễ Vượt Qua hôm nay.” Đó là sớm hơn mọi người, vậy cũng như mọi người. Lưu ý: Ngài có những sửa đổi nghi lễ một chút, như lập Bí tích Thánh Thể khi đang ăn.

Cũng có những cách giải quyết khác. Tuy nhiên, dù Chúa Giêsu làm gì, chúng ta vẫn có thể dựa vào câu nói của Thánh Gioan về những người bắt Chúa Giêsu khi biểu hiện những gì của người Do Thái hoặc cách thực hành chính của họ: Họ mừng Lễ Vượt Qua vào thời gian mà chúng ta gọi là chiều tối Thứ Sáu Tuần Thánh.

Chúng ta có thể giảm bớt thời gian một chút. Đây là những ngày trong những năm 29 và năm 36 có những chiều tối bắt đầu Lễ Vượt Qua:

+ Thứ Hai, 18 tháng 4 năm 29.

+ Thứ Sáu, 7 tháng 4 năm 30.

+ Thứ Ba, ngày 27 tháng 3 năm 31.

+ Thứ Hai, ngày 14 tháng 4 năm 32.

+ Thứ Sáu, 3 tháng 4 năm 33.

+ Thứ Tư, ngày 24 tháng 3 năm 34.

+ Thứ Ba, ngày 12 tháng 4 năm 35.

+ Thứ Bảy, ngày 31 tháng 3 năm 36.

Như vậy, chúng ta chỉ còn lại 2 Thứ Sáu: Chúa Giêsu chịu đóng đinh vào ngày 7 tháng 4 năm 30, hoặc ngày 3 tháng 4 năm 33. Vậy ngày nào? Ngày theo truyền thống là ngày vào năm 33. Có thể có nhiều người ủng hộ ngày của năm 30. Các Phúc Âm nói gì về 2 năm đó?

6. BA LỄ VƯỢT QUA

Phúc Âm theo Thánh Gioan cho biết có 3 Lễ Vượt Qua khác nhau trong thời gian sứ vụ của Chúa Giêsu:

+ Lễ Vượt Qua 1: Có ghi trong Ga 2:13, gần đầu thời gian sứ vụ của Chúa Giêsu.

+ Lễ Vượt Qua 2: Có ghi trong Ga 6:4, giữa thời gian sứ vụ của Chúa Giêsu.

+ Lễ Vượt Qua 3: Có ghi trong Ga 11:55 (và thường nhắc tới sau), cuối thời gian sứ vụ của Chúa Giêsu.


Như vậy, sứ vụ của Chúa Giêsu phải trong 2 năm đó. Cách đầy đủ hơn cho thấy rằng đó là khoảng 3 năm rưỡi, nhưng dù chúng ta cho rằng điều đó xảy ra ngay trước Lễ Vượt Qua 1, thêm vào 2 Lễ Vượt Qua khác, cho thấy rằng sự việc kéo dài tối thiểu phải hơn 2 năm.

Như vậy nghĩa là năm 30 đã qua. Không đủ thời gian giữa năm thứ 15 trong triều đại của Ti-bê-ri-ô Xê-da (năm 29) và Lễ Vượt Qua của năm kế tiếp để hợp với sứ vụ kéo dài ít nhất là 2 năm. Như vậy, ngày Chúa Giêsu chết theo truyền thống (Thứ Sáu, ngày 3 tháng 4 năm 33) là chính xác. Có thể chính xác hơn không?

7. GIỜ THỨ CHÍN

Các Thánh sử Mát-thêu, Mác-cô và Lu-ca đều nói rằng Chúa Giêsu chết vào khoảng “giờ thứ chín.” (Mt 27:45-50; Mc 15:34-37; Lc 23:44-46) “Giờ Thứ Chín” là 3 giờ chiều theo cách tính giờ ngày nay.

Điều này cho phép chúng ta thu hẹp thời gian Chúa Giêsu chết vào một điểm chính xác theo lịch sử: KHOẢNG 3 GIỜ CHIỀU THỨ SÁU, NGÀY 3 THÁNG 4 NĂM 33 SAU CÔNG NGUYÊN.

JIMMY AKIN

TRẦM THIÊN THU (chuyển ngữ )

nguồn: https://thanhlinh.net/node/154420

 TGPSG -- “Đứng gần thập giá Đức Giêsu, có thân mẫu Người, chị của thân mẫu, bà Maria vợ ông Cơlôpát, cùng với bà Maria Mácđala." (Ga 19,25)

Bước vào Tuần Thánh, chúng ta cùng suy niệm cuộc thương khó của Chúa Giêsu. Chúng ta đi theo Đấng Cứu Thế trong hành trình thương khó của Ngài, giống như một số nhân vật cách đây hơn 2000 năm đã đi theo từng bước chân của Chúa Giêsu, đến tận chân thánh giá, đau đớn đứng nhìn và hiệp thông cách sâu thẳm với với nỗi đau của Chúa Giêsu trên cây thập tự. Những nhân vật này được Thánh Gioan kể tên trong đoạn Tin Mừng trên đây, đó là: “Thân mẫu Người, chị của Thân mẫu, bà Maria vợ ông Cơlôpát, cùng với bà Maria Mácđala.”

Đã có nhiều họa sĩ vẽ những nhân vật đứng dưới chân Thánh Giá, trong đó có họa sĩ Tôn Thất Văn.

“Dưới Chân Chúa” là bức tranh lụa tuyệt đẹp của họa sĩ Tôn Thất Văn, được ông vẽ vào năm 1981.

Ông là một Phật tử, trong mối quen biết thân tình, đã vẽ tặng linh mục Đaminh Trần Thái Hiệp bức tranh này, một tác phẩm đầy biểu cảm, mô tả Thánh nữ Maria Mácđala đứng dưới chân thánh giá. Thánh nữ có mái tóc dài, mặc áo dài Việt Nam, cầm một cành sen hồng, dáng vẻ mềm mại với ánh mắt buồn thật đẹp. Phía sau Thánh nữ, dưới chân thánh giá, có rất nhiều bông hoa sen khác.

Từ đầu thập niên 1970, ông cùng họa sĩ Đinh Cường tạo tiếng  vang qua các cuộc triển lãm mỹ thuật tại Huế và miền Nam. Vào những năm khó khăn 80, họ từ giã Huế - người trước, kẻ sau - vào Sài Gòn tìm đất mưu sinh và cùng hợp sức với Trịnh Công Sơn tìm một không khí mới cho sáng tạo nghệ thuật. Lúc dầu họa sĩ sống rất khó khăn, đi dạy vẽ tranh lụa, mở quán cơm… Dần dần, cuộc sống của ông khá lên, nhờ tài vợ mở quán Ngự Viên nổi tiếng ở đường Kỳ Đồng.

Trên trang web Võ Quê, họa sĩ Vĩnh Phối - nguyên Hiệu trưởng trường Cao đẳng Mỹ thuật Huế - tâm sự về Tôn Thất Văn (và Đinh Cường):

“Đinh Cường ở Sài Gòn ra, cùng dạy vẽ với Văn và mình. Văn có tài. Vẽ khéo, hình thể chuẩn, phối màu giỏi, bố cục hay. Vẫn thường vẽ thiên về đề tài phụ nữ, hoa, phong cảnh Huế. Nhiều chất lãng mạn trong tranh... Văn vẽ cả sơn dầu lẫn lụa. Hắn đã để lại cả vài trăm bức tranh, và vẽ rất sung sức (theo mình ước lượng, có thể Văn có cả ngàn bức vẽ biến tấu để mưu sinh). Văn sống chân tình, hào hoa, lại đa tình với phái đẹp, và say mê sáng tạo như hầu hết bọn hoạ sĩ. Những năm đầu 70, hắn vừa dạy học vừa đi triển lãm khắp nơi. Văn nổi danh cùng với các hoạ sĩ Huế như Đinh Cường, mình, Hoàng Đăng Nhuận, Rừng (Kinh Dương Vương)…”

Những nhà phê bình nhận định: Tranh của Tôn Thất Văn có chất thơ, chất Huế lãng mạn, được ẩn lồng kín đáo dưới những đường nét rất khéo, với bố cục tài tình, có vẻ đẹp của  sự duyên dáng, và vẻ quyến rũ đầy mơ mộng. Tranh của Tôn Thất Văn còn bàng bạc vẻ đẹp nữ tính đằm thắm và sâu lắng, không lung linh, phóng túng, nhưng lãng đãng mơ màng trong hình thể và sắc màu như tranh Đinh Cường. (Bửu Nam, Tạp chí Sông Hương)

Lúc 5 giờ sáng ngày 16-9-2006, họa sĩ Tôn Thất Văn đột ngột qua đời tại TP.HCM sau một cơn nhồi máu cơ tim, thọ 69 tuổi.

Ước gì hình ảnh Thánh Maria Mácđala dưới chân Thánh Giá của Đinh Cường sẽ gợi ý cho chúng ta dành nhiều thời gian hơn để đứng kề bên Đức Mẹ Maria mà chiêm ngắm và nên một với Đức Giêsu trong hy tế thập giá của Ngài.


Vi Hữu (TGPSG)


 TỪ NƠI YÊU THƯƠNG + MƠ NGƯỜI BÊN ẤY

Maria Đỗ Thị Hồng Nhanh + Huệ Tây


 GHÉ ĐỒI FATIMA + TÍN TRUNG

Hoa Nguyên + Phêrô Nguyễn Bá Hiếu


 5 bức tranh chủ đề “Làm sạch Nhà Chúa” (Cleansing of the Temple) vẽ ở các thời điểm khác nhau, với các phong cách khác nhau của El Greco (1541-1614)

Vẽ năm 1568.

Vẽ năm 1571.

Vẽ năm 1595.

Vẽ năm 1600.


Vẽ năm 1609

Việc El Greco nhiều lần vẽ về chủ đề này, cho thấy với ông, ý nghĩa “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán” trong câu chuyện Kinh Thánh là hết sức quan trọng. Và sự thay đổi hình thức thể hiện, đối với ông, là cả một nổ lực khám phá tư tưởng chủ đề và cả sự khái quát trong diễn ngôn hội hoạ...

(Thời mới bước vào tìm hiểu hội họa-mấy chục năm trước-mỗi lần thấy loạt tranh như thế này, tôi sướng run người. Bởi đó là cơ hội rất tốt-qua so sánh, đối chiếu-để hiểu khả năng biểu hiện, khái quát trong ngôn ngữ hội họa, và cả về tính hình tượng của bố cục v.v...)

 HẠNH PHÚC NƠI ĐÂU

Maria Trúc Lư


 Trong suốt thời kỳ Phục Hưng (tk 14-16) lan sang tận cuối thời Baroque (tk 16-17), vẽ cảnh hạ xác Chúa Giêsu xuống khỏi Thập Tự Giá là một thách thức lớn đối với các họa sĩ.



Trước hết là thách thức về mặt kỹ thuật. Cụ thể hơn, là thách thức của nguyên tắc “vẽ đúng” theo cách nhìn “hiện thực” và theo các tiêu chuẩn thẩm mỹ về tính “cao cả”: làm thế nào để diễn tả hình ảnh Chúa Giêsu đã chết được đưa xuống khỏi Thập Tự Giá trong dáng dấp quặt quẹo mà không làm mất đi vẻ uy nghiêm của Người và không làm kinh sợ…

Tiếp theo, là thách thức về mặt tư tưởng. Cụ thể hơn, là thách thức của cách lý giải chủ đề và biểu hiện nghệ thuật. Hình ảnh Chúa Giêsu bị đóng đinh trên Thập Tự Giá, tuy đau thương, nhưng biểu hiện thẩm mỹ, căn bản vẫn là tinh thần BI TRÁNG, và tự nó đã bao gồm một ý nghĩa BIỂU TƯỢNG “THẦN THIÊNG”... Hình ảnh Chúa Giêsu sống lại, đi ra hay bay lên từ mộ đá, đã là hình ảnh khẳng định cho sự CHIẾN THẮNG và đã có ý nghĩa THẦN KỲ… Ở cả hai chủ đề này, cách lý giải chủ đề, mang đầy tính lý tưởng và gần như sẵn có, bởi vậy, sự thể hiện không trở nên quá khó... Chủ đề “Hạ xác Chúa Giêsu xuống khỏi Thập Tự Giá” thì khác hẳn. Nó gần như thuần tuý chỉ là câu chuyện đời thường. Làm thế nào để thể hiện những hình ảnh đau thương đời thường này mà không sa vào các tình cảm bi lụy thế tục, vẫn chuyển tải được ý nghĩa thiêng liêng cần có…

Bởi những thách thức như vậy, mà họa sĩ nào cũng muốn lao vào để "đo lường tầm vóc" của mình! May thay, không ít người đã thành công, nên cuối cùng, cho đến ngày nay, chúng ta đã được nhìn thấy không ít tuyệt tác trong chủ đề này.

Ở đây, tôi xin giới thiệu vài tác phẩm tiêu biểu nhất.

Trước tiên, phải kể đến bức tranh khổ lớn (220 x 262cm) của họa sĩ người Hà Lan Roger van der Weyden (1399-1464) sáng tác năm 1435.

Theo các nhà viết sử nghệ thuật, đây là tác phẩm đầu tiên thể hiện thành công chủ đề hạ xác Chúa Giêsu xuống khỏi Thập Tự Giá, và là tác phẩm đáng chú ý nhất thể hiện sự chín muồi của tác giả. Do hoà trộn giữa phong cách tượng trưng Trung Cổ trong cách thể hiện không gian và phong cách tả thực Phục Hưng trong cách thể hiện hình ảnh nhân vật, bức tranh đã có dáng dấp của một hoạt cảnh sân khấu vừa sống động vừa nghiêm trang. Sự sống động thể hiện qua sắc thái biểu cảm ở từng gương mặt, từng hình vi của các nhân vật. Và câu chuyện Kinh Thánh đã được thể hiện một cách trọn vẹn… Thân hình Chúa Giêsu, được xoay toàn bộ mặt trước về phía người xem, trở thành trung tâm của tác phẩm. Các phụ nữ khóc lóc đóng khung tâm điểm này ở cả hai bên. Thánh Gioan cúi về phía trước, giống như Thánh nữ Maria Mađalêna ở phía bên kia, cố gắng vô vọng để đỡ lấy Đức Trinh Nữ đang ngã xỉu trong chuyển động tương ứng với chuyển động của thân mình Chúa Giêsu đang được đưa xuống. Vẻ câm lặng của các ông già càng làm nổi bật những cử chỉ diễn cảm của các vai chính… Bằng phong cách “sân khấu hóa” này, Rogier đã nối truyền thống Gothic-kiểu-thức-hóa đến gần với nghệ thuật hiện đại Phục Hưng. Đó là một đóng góp lớn mang tính lịch sử, giúp hòa hợp những đòi hỏi mới được đặt ra cho nghệ thuật với mục đích tôn giáo cổ xưa.

Tác phẩm này, ban đầu, được vẽ cho một nhà nguyện ở Leuven, Hà Lan, nhưng từ thế kỷ 16, nó đã thuộc sở hữu của người Tây Ban Nha. Đến nay, nó đang được đặt tại bảo tàng Prado, Madrid, Tây Ban Nha. Xin xem ảnh tranh và một số chi tiết:




Cuối cùng, phải kể đến “Hạ xác Chúa Giêsu xuống khỏi Thập Tự Giá” (158-117cm) sáng tác năm 1634 của họa sĩ người Hà Lan Rembrandt van Rijn (1606-1669). Nói cuối cùng, bởi theo các nhà nghiên cứu lịch sử và phê bình mỹ thuật phương Tây, sau tác phẩm của họa sĩ bậc thầy dùng ngôn ngữ ánh sáng này, hầu như không còn tác phẩm nào có thể thể hiện cảnh hạ xác chúa Giêsu xuống khỏi Thập Tự Giá vừa hiện thực, gần gũi vừa mang lại những xúc cảm thiêng liêng đến vậy.

Rembrandt sáng tác bức tranh này khi mới 28 tuổi. Nhưng từ lâu trước đó, ông đã được xem là một bậc thầy diễn tả “sự vận động của tâm hồn”. Ông có vẻ như có thể nhìn thấu vào tâm tư của mọi loại người và biết họ sẽ cư xử ra sao trong bất cứ tình huống cho sẳn nào. Chính tài năng này, đã làm cho những bức tranh minh họa các câu chuyện trong Kinh Thánh của ông rất khác biệt với tất cả mọi thứ từng được thực hiện trước đó. Ông thâm nhập vào tinh thần của những câu chuyện và nỗ lực hình dung chính xác cái tình thế hẳn đã xảy ra, và nỗi xúc động cũng như cách xử sự của con người trong khoảnh khắc ấy. Hình ảnh trong tranh, qua cách thể hiện tài tình của ông, cho thấy, đây là câu chuyện hoàn toàn hiện thực, với những con người mà dáng dấp và hành vi như ta vẫn gặp trong đời sống hằng ngày. Nhưng cái ánh sáng lung linh thì lại hết sức tuyệt diệu, vừa rất thực vừa mang đầy sắc thái “siêu thực” của chiều sâu nội tâm. Thực tại được nhìn thấy, dường như đang ẩn chứa những sự thật khác cần được chiêm nghiệm. Rất khó diễn tả bằng lời, nhưng rõ ràng nó đã làm người xem rung động…

Tác phẩm này đang thuộc sở hữu của bảo tàng Hermitage ở St. Petersburg, Nga. Xin xem ảnh tranh:



Và dưới đây là một số tác phẩm nổi tiếng khác. Xin xem ảnh tranh:





Nguyên Hưng
https://tgpsaigon.net/bai-viet/mot-so-tac-pham-noi-tieng-trong-lich-su-nghe-thuat-cong-giao-the-hien-chu-de-ha-xac-chua-giesu-tu-thap-tu-gia-40146