VỀ NHÀ ĂN CƠM

Nguyễn Thị Như Hiền


 TRỞ LẠI VỚI "BỮA TIỆC LY" CỦA LEONARDO DA VINCI.


Ngày nay, do đã quá quen với các hình thức nghệ thuật tả thực, ít ai còn ngạc nhiên khi đứng trước hình ảnh “Bữa tiệc ly” của Leonardo da Vinci nữa. Nhưng, hãy thử đặt mình vào vị trí người thưởng lãm ở cuối thế kỷ 15, lúc ấy, chắc hẳn chúng ta cũng sẽ vô cùng sửng sốt.

1. Sửng sốt, bởi trước “Bữa tiệc ly” của Leonardo da Vinci, chưa hề có một tác phẩm hội họa tả thực nào có được phong thái hiện thực tinh tường và sống động đến thế. Nó vượt qua cung cách “kiểu thức hóa” của các tác phẩm cùng chủ đề có trước đó, đã đành. Nó còn vượt qua cái nhìn nghệ thuật “hướng đến cái đẹp lý tưởng” với các tiêu chuẩn toán học về sự hài hòa tiếp thu từ nghệ thuật Hy Lạp-La Mã cổ đại chi phối cảm quan nghệ thuật của các nghệ sĩ đương thời. Những gì hiện diện ở tác phẩm đều là “khách quan tuyệt đối”. Thêm nữa, do kích thước lớn (450 x 870cm), và do cách phối cảnh, bức tranh đã nhập hẳn vào “thế giới khách quan” như một sự kiện độc đáo! Có lẽ, E.H. Gombrich, trong “Câu chuyện nghệ thuật” (“The story of art”-xuất bản lần đầu năm 1950) đã có lý khi mô tả:

“… Bức họa bao phủ một mặt tường của gian sảnh hình chữ nhật dùng làm phòng ăn cho các tu sĩ thuộc tu viện Đức Bà Đầy Ơn Phúc ở Milan. Người ta phải hình dung cái sự thể đã xảy ra khi bức họa được trưng bày lần đầu, và khi sát kề những dãy bàn ăn dài của các thầy dòng là bàn tiệc của Đức Kitô và các Tông đồ. Trước nay chưa khi nào câu chuyện thánh này có vẻ gần gũi và giống thật đến thế. Như thể một gian sảnh khác được nối thêm vào với gian phòng của các thầy dòng, tại đó Bữa Tiệc Ly mặc lấy một dáng vẻ hiện thực. Cái luồng sáng đổ xuống trên bàn tiệc mới trong trẻo làm sao, và nhờ nó các nhân vật thêm đầy đặn và thuần khiết biết nhường nào. Có lẽ các thầy dòng là những người đầu tiên bị choáng váng vì lối diễn đạt vô cùng chính xác đã lột tả mọi chi tiết, từ các chén đĩa trên bàn và những đường lõm của y phục xếp nếp…”

Và dĩ nhiên không chỉ có vậy.

2. Mức độ trung thực của hình ảnh chỉ là một khía cạnh. Nếu chỉ nhìn ở khía cạnh này, nhiều tác phẩm cùng chủ đề sau đó, đã luôn vượt trội hơn, bởi sự ra đời của sơn dầu (oil painting) vốn rất thuận lợi cho việc mô tả. Điều quan trọng hơn, làm nên giá trị “không thể vượt qua” của tác phẩm, là ở cái cách trình bày câu chuyện Kinh Thánh của Leonardo da Vinci. Hình ảnh các nhân vật và bối cảnh được thể hiện trong tranh hết sức tự nhiên, tuy nhiên, đó không phải là kết quả của một sự nắm bắt ngẫu nhiên của trí tưởng tượng, mà là sản phẩm được sáng tạo với sự nghiền ngẫm, quan sát và diễn tả tuyệt vời của một bậc thiên tài. Ngoài những vấn đề kỹ thuật như bố cục và phác hoạ, ta phải ngưỡng mộ sự hiểu biết sâu sắc của Leonardo da Vinci về thái độ và hành vi con người, và cái khả năng tưởng tượng nhờ nó ông có thể đặt cảnh tượng ấy trước mắt ta. Người ta đã có thể gọi tên từng nhân vật được thể hiện và, có thể cảm giác về một sự vận động mạnh mẽ của tinh thần trong tác phẩm.

“Nơi tác phẩm này không có gì giống với những minh họa cùng chủ đề trước đó.



Trong những họa phẩm truyền thống ấy, các tông đồ ngồi yên lặng thành một dãy ở bàn tiệc - chỉ mình Giuđa bị cách ly khỏi cộng thể - trong khi Đức Kitô đang trầm lặng ban phát Bí Tích Mình Thánh.

Bức tranh mới rất khác với bất kỳ bức họa nào trong số này. Nó hàm chứa một bi kịch và một nỗi kích động. Leonardo, giống như Giotto trước ông, cũng đã quay về với các bản văn Thánh Kinh, và đã cố hình dung cái sự thể hẳn đã xảy ra khi Đức Kitô nói: “Thầy bảo thật cho anh em biết, một người trong anh em sẽ phản bội Thầy”. Các môn đệ hết sức buồn bã và từng người bắt đầu hỏi Ngài: “Thưa Thầy, chẳng lẽ con sao?” (Mt 26, 21-22). Phúc âm Thánh Gioan thêm rằng “Trong số các môn đệ, có một người được Đức Giêsu thương mến. Ông đang dùng bữa, đầu tựa vào lòng Đức Giêsu. Simon Phêrô làm hiệu cho ông ấy và bảo: “Hỏi xem Thầy muốn nói về ai?” (Ga 13, 23-24). Chính việc hỏi han và ra dấu này đã đưa chuyển động vào trong khung ảnh. Đức Kitô vừa nói ra những lời sầu thảm thì những kẻ bên cạnh Ngài lùi lại vì kinh khiếp khi nghe điều ấy. Vài môn đệ như khẳng định tình yêu và sự vô tội của mình. Một hai môn đệ khác hết sức nghiêm túc bàn luận xem ai có thể là kẻ Thầy muốn ám chỉ. Một số khác lại như nhìn vào Thầy để chờ giải thích. Thánh Phêrô, nóng nảy nhất trong cả nhóm, chúi vào Thánh Gioan. Ông ngẫu nhiên đẩy Giuđa về phía trước. Giuđa không bị tách khỏi nhóm, thế nhưng dường như ông ta rất trơ trọi. Chỉ mình ông ta ngồi yên và không thắc mắc. Ông ngã người về phía trước và nhìn lên trong ngờ vực hoặc giận dữ, một tương phản đầy ấn tượng so với hình ảnh Đức Kitô ngồi trầm lặng và chịu đựng giữa cảnh náo động đang trào dâng.

Người ta tự hỏi phải mất bao lâu những khán giả đầu tiên mới nhận ra cái nghệ thuật hoàn hảo đã chi phối tất cả những động tác đầy kịch tính này. Bất kể sự khích động gây ra do lời nói của Đức Kitô, không hề có rối loạn trong bức tranh. Mười hai Tông đồ như rất tự nhiên phân thành bốn nhóm ba người, được liên kết với nhau bằng cử chỉ và chuyển động. Có biết bao trật tự trong sự đa dạng này, và quá nhiều kiểu mẫu khác nhau trong trật tự ấy, đến độ người ta chẳng khi nào có thể nghiên cứu tường tận cái tác dụng hỗ tương hài hòa giữa chuyển động và chuyển động hồi đáp…”  (E.H.Gombrich - sách đã dẫn)

3. Ở một khía cạnh khác nữa, cách trình bày câu chuyện Kinh Thánh của Leonardo da Vinci là sự dung hòa tuyệt vời giữa tính chất “thần thiêng” với tính chất “thế tục”. Một mặt, tính cách hiện thực của tác phẩm, đã khiến cho câu chuyện Kinh Thánh trở thành một mảnh của thực tại, rất gần với mọi người, biến câu chuyện Kinh Thánh trở thành một kinh nghiệm đời thường… Nhưng mặt khác, ngay trong cách bố cục tranh, với sự nổi bật trong tư thế vững chãi ở vị trí trung tâm của hình ảnh Chúa Giêsu, cùng sự cân xứng, hài hòa tự nhiên đã khiến cho tác phẩm toát lên vẻ nghiêm trang “thần thánh” và gợi mở vô số những liên tưởng sâu xa vượt ra ngoài các trải nghiệm thường tục. Cái cấu trúc tam giác cân trong cách thể hiện hình ảnh Chúa Giêsu được xem là một ẩn ngôn biểu hiện sự hợp nhất Ba Ngôi - nền tảng của Bí tích Thánh Thể và Bí tích Truyền Chức Thánh. Toàn bộ phối cảnh trong tranh đã hướng sự chú ý của người xem vào vị trí trung tâm này của hình ảnh Chúa Giêsu. Và cả cái khung cửa sổ ở ngay sau lưng Chúa Jesus cũng đã gợi cho mọi người cảm tưởng không đơn thuần là một yếu tố không gian. Cái ánh sáng mà nó mang lại dường như có ý nghĩa thay thế cho vòng hào quang tượng trưng phổ biến trong các tranh thánh. Nó nhấn mạnh, hay khẳng định, cho ý nghĩa linh thiêng của sự hợp nhất của Ba Ngôi Thiên Chúa…

V.v… và v.v…

Chính khả năng gợi mở vô số những liên tưởng, những trừu xuất siêu hình vừa nói, đã khiến cho “Bữa tiệc ly” của Leonardo da Vinci có một sức hấp dẫn kỳ lạ và tác phẩm đã không ngừng được tái sinh cho đến ngày nay…

Còn nhiều điều có thể nói. Nhưng tôi sẽ quay lại vào một dịp khác. “Bữa tiệc ly” của Leonardo da Vinci, ngay cả trong tình trạng bị hư hại, vẫn là “một phép lạ vĩ đại” do tài năng con người tạo nên.

NGUYÊN HƯNG.
https://tgpsaigon.net/bai-viet/tro-lai-voi-bua-tiec-ly-cua-leonardo-da-vinci-2-40308

(Bài đã in trong sách "Nghệ thuật Công giáo"-tập 1, xuất bản năm 2012)


 "KHI MẠNH KHỎE CŨNG NHƯ LÚC ĐAU YẾU..."

Nguyễn Quang Nhân


Trở lại với “Bữa tiệc ly” của Leonardo da Vinci (1)

 “Bữa tiệc ly” (The Last Supper1495-1498) của Leonardo da Vinci (1452-1519) - thể hiện bữa ăn tối cuối cùng của chúa Giêsu với các tông đồ trước giờ Người chịu khổ nạn - là một tác phẩm nghệ thuật vô cùng nổi tiếng.


Hầu như “ai cũng biết” đó là một kiệt tác hội họa, đánh dấu một bước phát triển hoàn mỹ của nghệ thuật nhân loại thời đại Phục Hưng, là tác phẩm đỉnh cao có nhiều ảnh hưởng nhất trong lịch sử nghệ thuật Thiên Chúa Giáo, và là tác phẩm được thực hiện bởi một “thiên tài nghệ thuật”…

Những cái “biết” trên chẳng có gì sai.

Nhưng, sẽ rất vô ích - thậm chí có hại - cho nhận thức, nếu không gắn liền với các diễn giải xác thực, có tính hệ thống…, và nếu không tiếp cận được với tác phẩm gốc, hoặc ít nhất là với phiên bản “đúng”.

Ở Việt Nam, cả hai vấn đề sau chữ “nhưng” vừa nêu, đều có vô số điều bất cập. Và chính vì những bất cập đó, mà tôi viết bài “trở lại” này.

Thứ nhất, về vấn đề diễn giải:

Gần như hầu hết các bài viết tiếng Việt về “Bữa tiệc ly” của Leonardo da Vinci đều chỉ xoay quanh việc mô tả sự kiện mang tính thời sự, đại khái:

Tác phẩm là một bức tranh tường, được vẽ trực tiếp lên tường phòng ăn ở tu viện Santa Maria delle Grazie ở Milan, Italy, có kích thước khá lớn (450x870cm) và, được Leonardo da Vinci sáng tác trong khoảng thời gian từ 1495 đến 1498 theo yêu cầu của Công tước Ludovico Sforza.

Để thực hiện tác phẩm này, Leonardo da Vinci phải đi quan sát thực tế rất nhiều để nắm bắt các sắc thái điển hình (về dung mạo, hành vi, trang phục) cho từng nhân vật, và đã thực hiện rất nhiều khảo họa.

Tác phẩm ngay sau khi hoàn thành, đã gây choáng váng cho người mộ điệu đương thời vì dáng vẻ hiện thực sống động, vô cùng tinh tế trong cách thức thể hiện các nhân vật, vì sự thông minh bác học trong cách phối cảnh, và, vì sự hài họa tự nhiên trong cách bố cục, điều phối màu sắc…

Điều đáng tiếc, là tác phẩm nhanh chóng bị hư hại, một phần là do Leonardo da Vinci đã sai lầm khi dùng kỹ thuật vẽ trực tiếp trên nền thạch cao khô (chứ không phải trên nền thạch cao ướt được dùng phổ biến đương thời), và phần khác, nghiêm trọng hơn, là do sự phá hoại của con người trong các thời kỳ biến động của lịch sử sau đó. Tác phẩm cũng đã được phục chế nhiều lần, nhưng chính sự phục chế này, đã gây nên các tranh luận gay gắt về diện mạo chân thực của tác phẩm hiện tại!...

Cho đến ngày nay, “Bữa tiệc ly” của Leonardo da Vinci đã được xem là một kỳ quan thế giới do con người tạo nên…

Nhiều bài viết khác, chỉ xoay quanh các giai thoại, các câu chuyện đơm đặt chung quanh tác phẩm. Từ các “thông điệp bí mật” được tác giả giấu kín trong tác phẩm đến các câu chuyện về các nguyên mẫu cho từng nhân vật trong tranh. Trong đó, được nhắc đến nhiều nhất, được nhiều người tin (là thật) nhất, là giai thoại về nguyên mẫu hình tượng Chúa Giêsu và hình tượng Giuđa (1).

Chỉ một số rất ít tập trung mô tả tác phẩm như một sự kiện nghệ thuật. Tuy nhiên, sự mô tả này, cũng chỉ dừng lại ở sự mô tả chủ đề tác phẩm, chưa đủ cho một nhận thức thực sự về nghệ thuật. Ngay sau đây là đoạn văn tiêu biểu nhất:

“Đề tài tổng quát bức hoạ là bữa tiệc ly, bữa ăn cuối cùng Chúa dùng với các môn đệ trước khi lên đường khổ nạn. Leonardo đã thu gọn đề tài vào một thời điểm nhất định trong bữa tiệc: lúc Chúa vừa nói với 12 môn đồ: “Quả thật, Thày bảo cho các con biết, một người trong các con sẽ phản Thầy”. Nét mặt Chúa buồn rầu, đôi mắt nhìn xuống như muốn tránh cái nhìn của kẻ Người vừa tố giác. Hai tay buông xuôi tựa xuống mặt bàn, cử chỉ của Người vừa tiết lộ một điều quan trọng và bây giờ lặng thinh không nói nữa: một giây phút thinh lặng bi tráng!

Bỗng chốc, như một dòng điện, lời tố giác của Chúa truyền đi mau chóng, gây phản ứng đột ngột trên nét mặt và cử chỉ dáng điệu của 12 môn đồ. Mỗi ông phản ứng một cách tuỳ theo tính tình, tâm lý từng người.

Sát bên tay phải Chúa là Gioan, người môn đệ yêu quý có tâm hồn dễ cảm, biểu lộ sự đau đớn trầm lặng sâu xa. Tiếp đến Phêrô tính bộc trực nóng nảy, ghé sát đầu Gioan hỏi nhỏ xem ai là thủ phạm. Con dao sắc nhọn chìa ra phía sau lưng chứng tỏ ông sẵn sàng nghiêm trị tức khắc đứa phản Thầy như lát nữa ông sẽ chém đứt tai tên đầy tớ thầy thượng tế trong vườn Cây Dầu. Giuđa ngồi ngay trước Phêrô, có thái độ hốt hoảng như tên ăn trộm vừa bị lộ tẩy, tay phải ôm chặt túi bạc, tay trái giơ ra phía trước như muốn phân bua chối cãi. Kế đó là An-rê, xoè hai bàn tay ra, bỡ ngỡ kinh hoàng trước cái tin gở lạ không thể tưởng tượng được. Giacôbê hậu, tinh anh hơn, vươn cánh tay gọi Phêrô như để bảo ông: tôi đã đoán ra được ai rồi! Cuối hàng là Bartôlômêô sửng sốt đứng dậy nghiêng mình về phía trước đểm xem và nghe cho rõ đầu đuôi câu chuyện.

Phía tay trái Chúa: Giacôbê tiền, nét mặt bỡ ngỡ kinh ngạc, hay tay giang rộng, lùi về phía sau như bị áp lực của lời Chúa vừa tung ra. Tôma, con người linh hoạt nhất trong nhóm, đã rời chỗ lại gần Chúa giơ ngón tay băn khoăn hỏi: “Thày có nghi ngờ gì tôi không?’

Kế đến Philipphê, dáng điệu ôn hoà, chỉ tay vào ngực thề nguyện một niềm trung tín trọn vẹn. Mát-thêu đang chuyển lại tin buồn cho hai ông bạn ngồi cuối bàn là Tađêô và Simon. Hai ông có phần lớn tuổi, cử chỉ điềm tĩnh chậm chạp hơn, nhưng nét mặt không giấu được nỗi lo âu, phiền muộn.

Giữa bầu khí xúc động náo nhiệt ấy, một mình Chúa ngồi rất điềm tĩnh, nét mặt hiền dịu in trên nền trời xanh êm ả, coi như Ngài không lưu ý gì tới sự xôn xao náo động chung quanh. Tuy nhiên người ta đọc được nét thoáng buồn trên khuôn mặt và hai bàn tay của Chúa.

Cách bố cục rất tài tình. Tác giả dàn xếp các nhận vật thành từng nhóm 3 người, mỗi bên hai nhóm. Chúa ngự giữa trung tâm bức tranh. Tất cả các đường nét, các điệu bộ, cử chỉ đều hướng về trung tâm. Từ nhóm nọ sang nhóm kia, tác giả cũng hữu ý nối kết lại với nhau bằng những đường nét rất tự nhiên, tỉ dụ bàn tay Gia-cô-bê vắt qua lưng Phê-rô để nối liền hai nhóm bên phải Chúa, và cánh tay Mát-thêu giang ra làm gạch nối giữa 2 nhóm bên trái Chúa.” (2)

Các cách diễn giải trên, có thể có ý nghĩa, trong một chừng mực nhất định, về mặt xã hội và luân lý, nhưng thực tế, chẳng giúp ích được gì cho sự tăng tiến nhận thức về nghệ thuật nói chung, về “Nghệ thuật Thánh-Công giáo” nói riêng, và về bản thân tác phẩm. Cách diễn giải thứ nhất, chỉ mới là sự “làm quen”; cách thứ hai, đơn giản chỉ là “mượn cớ” cho những câu chuyện khác; còn cách diễn giải chủ đề vừa dẫn dài dòng ở trên, tuy giúp hiểu nội dung tác phẩm, nhưng rất dễ dẫn người xem vào một ngộ nhận hết sức tai hại: không phân biệt được sự khác biệt của một tác phẩm nghệ thuật với một bức tranh minh họa đơn thuần!

Những bất cập, ít nhất, cần phải làm rõ và bổ khuyết ở đây là:

Một, cần phải nhìn tác phẩm trong các tương quan lịch sử của nó. Mà, cụ thể, là trong xu hướng “canh tân” mọi mặt trong đời sống văn hóa và tôn giáo thời đại Phục Hưng.

Hai, cần phải nhìn tác phẩm trong tương quan so sánh với các tác phẩm khác cùng chủ đề (Bữa tiệc ly) được sáng tác trước đó và sau đó.

Chỉ khi làm rõ hai vấn đề này, thì mới có được cái nền cơ bản, để thấy rõ hơn các đóng góp “thiên tài” của Leonardo da Vinci về ngôn ngữ nghệ thuật và về tư tưởng-hai yếu tố căn bản để có nhận thức đúng về nghê thuật.

Dĩ nhiên, bổ khuyết cho những bất cập này là chuyện dài dòng, cần đến một chương trình phổ cập được thiết kế hệ thống. Ở đây, đặt tác phẩm giới hạn trong tương quan “Nghệ thuật thánh Công giáo” và hướng đến đối tượng là cộng đồng giáo dân, tôi chỉ muốn lưu ý:

“Bữa tiệc ly” là một trong những chủ đề quan trọng của “Nghệ thuật thánh Công giáo”. Các tác phẩm “Bữa tiệc ly” trước thời Leonard da Vinci, đặc biệt trong thời Trung Cổ (hoặc ở những nơi vẫn còn có tính chất trung Cổ) chủ yếu, chỉ hướng đến mục tiêu phụng vụ, và với mục tiêu phụng vụ, chủ yếu chỉ nhắm đến ý nghĩa: qua đó Chúa Giêsu đã thiết lập hai bí tích quan trọng là Bí Tích Thánh Thể và Bí Tích Truyền Chức Thánh. Hầu hết các tác phẩm này, với mục tiêu như vậy, xem “Bữa tiệc ly” là một sự kiện “thần thiêng” và do đó, chỉ được thể hiện một cách tượng trưng với sự uy nghiêm thuần khiết - một bảo đảm chắc chắn cho lòng tôn kính và thờ phượng. (Xem tranh)




Các tác phẩm “Bữa tiệc ly” sau thời Leonard da Vinci, gần như hầu hết, được thể hiện chủ yếu trong tầm nhìn “thế tục”. “Bữa tiệc ly” chỉ còn là một sự kiện lịch sử, hay thuần tuý chỉ là một ẩn dụ. Tính chất “Thần thiêng” của chủ đề đã được thay thế hoàn toàn bởi tính chất “hiện thực”. Các tác phẩm, bởi vậy, mà có tính cách phóng túng và “đời thường” hơn. Dưới dây là vài tác phẩm tiêu biểu:





“Bữa tiệc ly” của Leonardo da Vinci là tác phẩm đầu tiên và duy nhất dung hòa tính chất “thần thiêng” và tính chất “thế tục” một cách hoàn hảo với sự hoà trộn một cách tuyệt diệu ngôn ngữ tả thực và ngôn ngữ ẩn dụ vừa thể hiện được tính cách uy nghiêm của chủ đề vừa hết sức sinh động. Chẳng phải ngẫu nhiên tác phẩm này đã có một vị thế vô cùng vững chãi không chỉ trong lịch sử “Nghệ thuật Thánh-Công giáo” mà còn trong lịch sử nghệ thuật nhân loại nói chung… Xin xem lại tác phẩm:

Thứ hai, về vấn đề tiếp cận tác phẩm:

Điều cần nói ngay, quanh “Bữa tiệc ly” của Leonardo da Vinci, có rất nhiều dị bản được thực hiện bởi nhiều họa sĩ hữu danh và vô danh ở khắp mọi nơi sau này. Và, gần như hầu hết các phiên bản “Bữa tiệc ly” mà chúng ta nhìn thấy hiện nay, ở khắp mọi nơi, đều được nhân ra từ các dị bản này. Dưới đây là vài dị bản tiêu biểu:

Từ đây, rất cần một sự khẳng định, hầu hết các phiên bản mà chúng ta đang nhìn thấy, thực sự, không thể đại diện cho “Bữa tiệc ly” của Leonardo da Vinci.

Sự khẳng định này là hết sức cần thiết. Không chỉ nhằm tránh cách đánh giá sai về tầm vóc “thiên tài” của tác phẩm gốc, mà quan trọng hơn, còn tránh dẫn đến cách hiểu sai về nghệ thuật nói chung.

Để có một chút hình dung về sự tuyệt vời của tác phẩm gốc (đã bị biến đổi nhiều bởi hư hại và qua các lần phục chế) có lẽ, nên xem qua một số khảo họa mà Leonardo da Vinci đã thực hiện còn lưu giữ được:


Nguyên Hưng

(1) “Chuyện lạ từ Bích họa Bữa Tiệc Ly và Danh họa Leonardo Da Vinci”-http://tgpsaigon.net/baiviet-tintuc/20101216/8050.

(2) Bức hoạ “Tiệc Ly”- http://www.dktnt.conggiaovn.net/ktdm/showthread.php?t=463

 LỜI MỞ ĐẦU MỤC ĐỒNG 19:

"Đói no có thiếp cùng chàng"

Ban Biên soạn


 Tìm đọc

NIỀM VUI LÀM CON CHÚA

Để đào sâu đức tin Kitô giáo

Lm. Trăng Thập Tự

Quyển sách mang theo ước mơ xây dựng mỗi học viên thành một Kitô hữu dám sống và loan báo Tin mừng.

Quyển sách mong được gửi đến các phụ huynh, giáo lý viên, huynh trưởng, quý chức Hội đồng Giáo xứ, hội viên Legio Mariae, chủng sinh, tu sĩ và mọi bạn trẻ.

Cách riêng, quyển sách ước mong giúp mỗi bạn trẻ đang yêu trở thành người loan báo Tin mừng cho người mình yêu.

Trước khi đọc sách này, mời bạn dán ảnh chân dung của mình vào trang đầu, cạnh ảnh Chúa Giêsu. Động tác này giúp bạn khởi sự xây dựng một tương quan mới với Chúa, sẽ nảy nở dần với góc “niềm riêng với Chúa” cuối mỗi bài học.

Phiên bản điện tử NIỀM VUI LÀM CON CHÚA có thể tải miễn phí tại:

1/ Link tải:

Link tải sách từ Bitly

Link tải sách từ Google Drive

2/ Quét mã QR để tải sách:

Nếu cần mua sách in, xin liên lạc về Liên đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể Người Chứng Thứ Nhất, Giáo phận Qui Nhơn, qua địa chỉ:

Ô. Dương Thành Thiêng 

0905.340.307 (có Zalo), <duongthieng@gmail.com>

Bản in 448 trang, khổ 14,5x20,5cm, giá 55.000 vnđ.

Sách được đề giá hết sức thấp để bất cứ giáo xứ nào cũng có thể tặng rộng rãi cho những ai muốn thật lòng tìm kiếm Chúa và đào sâu tương quan mật thiết với Chúa.

Xin giúp giới thiệu đến mọi người quanh bạn.

 "SỰ BUỒN ĐAU CỦA ĐẤNG CỨU THẾ” - MỘT BỨC TRANH GÂY TRANH CÃI CỦA SIEGER KODER (1925-2015)




Chiếc áo in dấu tích khổ nạn trong Công cuộc Cứu chuộc của Chúa, được/bị chia thành nhiều mảnh. Trong tranh, phía trước, bên phải là hình ảnh một Giám mục Công giáo, đang siết chặt một mảnh, còn bên trái, là một Mục sư Tin lành, cũng đang săm soi vào một mảnh; ở hàng trên, bên trái, là một Thượng phụ Chính thống giáo, đang ôm kỹ một mảnh, còn bên phải, là một “nhà cách mạng”, đang vung mảnh áo Chúa như “một ngọn cờ cách mạng xã hội”...

Tất cả, đều siết chặt, đều săm soi, đều ôm kỹ, đều đang vung mảnh áo Chúa thuộc phần mình một cách tận tụy, và quyết liệt. Nhưng, tất cả, dường như, lại đang quên, Chúa vẫn đang đứng đó, mình mẩy đầy thương tích, và đau khổ...

Mỗi người trong số bốn người tạo ra hình ảnh Chúa Cứu thế của riêng mình. Họ cùng nhau đóng đinh Chúa Giêsu một lần nữa, Thập Tự Giá hiện rõ trong tấm áo rách...

Người ta vẫn đến nhà thờ, người ta vẫn cầu nguyện, nhưng người ta lại không nhớ, không trải nghiệm cái hành trình xuống thế làm người chịu khổ nạn để Cứu chuộc loài người của Chúa... Vầng hào quang trên đầu Chúa, như mặt trời, đang bị tối đi-dấu hiệu than khóc của Thiên đàng. Điều này sẽ còn tiếp diễn trong bao lâu nữa?

Tranh của hoạ sĩ và là linh mục Sieger Köder (1925 -2015)-người được xem là nghệ sĩ Công giáo quan trọng và có ảnh hưởng nhất của nghệ thuật Công giáo thế kỷ 20.

Nguyên Hưng

(Trích từ sổ tay nghệ thuật Công giáo-2015

 “CHÚA JESUS VÁC THÁNH GIÁ” CỦA EL GRECO (1541-1614)



El Greco sinh ở Crete, lúc đó thuộc Cộng hoà Venice, và là trung tâm nghệ thuật hậu Byzantine. Ông được xem là “bậc đại sư” về nghệ thuật từ rất sớm. 

Năm 1570-29 tuổi-ông qua Rome mở xưởng sáng tác và làm việc. Thời gian ở đây, ông tiếp thu các thành tựu của nghệ thuật Phục hưng Ý, và chịu ảnh hưởng của phong trào Mannerist. Năm 1577, ông sang Toledo, Tây Ban Nha và làm việc ở đó đến cuối đời. Ở Toledo, El Greco đã vẽ những bức tranh nổi tiếng nhất của ông. Nhưng bởi ông phát triển một phong cách riêng, nghiêng theo hướng biểu hiện quá khác lạ làm cho nhiều người đương thời ngỡ ngàng... 

Mãi cho đến đầu thế kỷ 20, El Greco mới được phát hiện lại và được nhìn nhận như một thiên tài “đi trước thời đại”. El Greco được các hoạ sĩ thuộc các trường phái Biểu hiện và Lập thể-ra đời đầu thế kỷ 20-nhận là “người tiên phong”. Nhiều nghệ sĩ lớn của thế kỷ 20 yêu thích tác phẩm của ông, trong đó, có những thi sỹ và văn sỹ như là Rainer Maria Rilke và Nikos Kazantzakis. Các học giả hiện đại coi ông là một nghệ sĩ có cá tính độc đáo-một con người tự do thực sự với những tác phẩm tinh tế, đầy cảm xúc...

“Chúa Jesus vác Thánh Giá” là một bức tranh sơn dầu trên vải (khổ 105cm x 79cm) El Greco vẽ năm 1580. Bức tranh được xem là thành tựu sớm của “thời Toledo”-đánh dấu sự định hình “thế giới nghệ thuật El Greco” một cách rất riêng...

Bức tranh mô tả Chúa Jesus trong một khoảnh khắc suy tư khi Ngài vác Thập Tự Giá trên con đường Khổ Nạn của mình. Trong tranh, đôi mắt của Chúa Jesus đang ngước lên trời như đang cầu khẩn cùng Đức Chúa Cha, khi Ngài bắt đầu bước về phía bị đóng đinh. Đôi tay Ngài dịu dàng ôm lấy Thập Tự Giá như sẵn sàng đón nhận, trong khi bầu trời mây đen giông bão đang tràn ngập...

Hình ảnh Chúa Jesus trong tranh El Greco vừa giống, vừa rất khác với hình ảnh Chúa Jesus trong tranh của các hoạ sĩ khác cùng thời và trước ông. Ông kéo dài khuôn mặt của Chúa và biến đổi tỉ lệ hình thể theo chiều dọc cùng với cách diễn hình sơ lược trong những hình khối chắc chắn và bảng màu đạm bạc, đã tạo nên những cảm xúc khác lạ. Nikos Kazantzakis cho rằng: “Tranh của El Greco mang ý niệm của Chủ nghĩa Lãng mạn. Nó toát lên vẻ đẹp của sự đau khổ và tình yêu. Nó tràn đầy nổi đau và sự tranh đấu. Nó vừa mang tính biểu tượng vừa tạo nên cảm giác thiêng liêng...”

“Chúa Jesus vác Thánh Giá” của El Greco là một bức tranh có cấu trúc đơn giản. Tuy vậy, nó vẫn tạo nên được kết nối với sự hiện diện của thần thánh một cách hấp dẫn, mạnh mẽ, trực quan và đầy cảm xúc.

Trong tranh của El Greco, màu sắc có tầm quan trọng tuyệt đối. Ông không chuộng màu sắc tự nhiên, và ánh sáng lấp lánh. El Greco thường có xu hướng sử dụng những gam màu trầm, đầy đặn, phong phú để thể hiện cảm xúc theo chiều hướng biểu hiện nhằm tác động đến tâm trạng người xem. Nikos Kazantzakis gọi đó là “màu sắc của thế giới tâm linh”

Bức tranh “Chúa Jesus vác Thánh giá”, từ năm 1975, đã được Bảo tàng Nghệ thuật Metropolitan ở New York mua lại và trưng bày ở đó cho đến nay.

Nguyên Hưng

(Trích từ sổ tay nghệ thuật Công giáo)

 “MƯỜI BỐN CHẶNG ĐÀNG THÁNH GIÁ” CHÂU PHI NỔI TIẾNG...


Ban đầu, chủng viện thần học của dòng Tên ở Nairobi (Hekima College) chỉ nhờ Engelbert Mveng (1930–95) vẽ một tác phẩm Pieta cho nhà nguyện họ (Hình đầu tiên). Nhưng sau đó, một nghệ sĩ vô danh ở Kenya đã nắm bắt cách vẽ của Mveng, và thực hiện thành bộ tranh “Mười bốn chặng đàng Thánh Giá”. Bộ tranh này, được xem là một ví dụ xuất sắc của nghệ thuật Công giáo đương đại ở Châu Phi.

 Mveng là một linh mục Dòng Tên, nghệ sĩ, nhà thần học và nhà sử học lỗi lạc. Vào ngày 22 tháng 4 năm 1995, ông bị sát hại dã man tại nhà riêng ở Yaoundé (hoàn cảnh và động cơ giết người đến nay vẫn chưa rõ ràng). Các tác phẩm nghệ thuật nổi tiếng quốc tế của ông có thể được tìm thấy trong các nhà thờ, nhà nguyện và trung tâm giáo dục trên khắp thế giới — ví dụ, ở Nairobi, Nazareth, Chicago và Yaoundé.

Bức tranh của Mveng chính là “chặng đàng thứ XIII”, theo truyền thống được gọi là “Hạ xác Chúa xuống khỏi Thập Tự Giá”. Hình ảnh thể hiện khoảnh khắc ngay sau khi Chúa Giêsu được đưa xuống và Đức Mẹ nhận xác Người. Đó là một Pietà châu Phi.

Người xem khó có thể không bị cuốn hút bởi mối liên hệ mật thiết giữa Chúa Giêsu đã chết và mẹ của ngài trong tác phẩm này. Khuôn mặt của Chúa Giêsu và Mẹ Maria được vẽ chồng lên nhau thể hiện sự gần gũi;  Chiếc áo choàng của Đức Mẹ và tấm vải liệm của Chúa Giêsu có cùng một mẫu-hai cơ thể gần như đã trở thành một.

Mveng là một bậc thầy về các thiết kế cách điệu được tạo ra với một bảng màu hạn chế. Ông chỉ sử dụng ba hoặc bốn màu. Khuôn mặt của Chúa Giêsu giống như một chiếc mặt nạ — một chiếc mặt nạ của người châu Phi — góp phần vào việc miêu tả ông như một ‘Đấng Christ châu Phi’.  Mveng cũng dựa trên các yếu tố phong cách của các bức tranh Ethiopia, đặc biệt là bằng cách đơn giản hóa các hình, phóng đại vùng mắt của nhân vật và sử dụng đường nét rõ ràng để diễn tả...

Trong bối cảnh đau khổ và chết chóc lan rộng trên lục địa Châu Phi, Mveng đã thành công trong việc tạo ra một biểu tượng của tình yêu và lòng trắc ẩn. Phần lớn phụ nữ châu Phi phải chịu hậu quả tồi tệ nhất của nạn đói, bệnh tật và cái chết, đồng thời phải chăm sóc con cái (và thường là mất con). Kinh nghiệm của người phụ nữ về việc để tang những đứa con đã chết cho thấy một điều gì đó vượt quá nhu cầu sinh học đơn thuần; nó đưa chúng ta vào lĩnh vực của tâm thức tôn giáo. Nó cho thấy sức mạnh của một tình yêu ‘mạnh hơn cả sự chết’ (Bài ca của Sa-lô-môn 8: 6).

Do đó, sự giống nhau về mặt hình ảnh của khuôn mặt và thân thể của Đức Mẹ và Chúa Giêsu trong bức tranh của Mveng không chỉ là thể hiện sự gần gũi của họ. Khi lòng trắc ẩn của Maria làm chứng cho sự hiệp nhất sẽ tồn tại sau cái chết, Mveng biến người phụ nữ châu Phi than khóc thành một “Alter Christus”-“Một Đấng Christ khác”

Bộ “Mười bốn chặng đàng Thánh Giá” này, được thể hiện liền mạch với tinh thần của Mveng, và thống nhất về hình thức... 

















(Trích từ sổ tay nghệ thuật Công giáo-2014)


 Trước Chiếu chỉ Milan năm 313 sau Chúa Giêsu, một Chiếu chỉ cho phép các Kitô hữu tự do thực hành tôn giáo của mình trong đế quốc, các Kitô hữu đã phải cách sống kín đáo để tránh bị bách hại. Lúc đó, các biểu tượng trở nên một phương tiện giao tiếp tuyệt vời.

Nếu họ không có quyền quy tụ để cử hành trong cộng đoàn, thì họ vẫn có thể chôn cất người chết của mình cách xứng đáng. Và chính ở đó, trong lòng các hang toại đạo, mà Kitô giáo được thể hiện cách hữu hình.

Nghệ thuật Kitô giáo được nảy sinh trong một khung cảnh tang lễ. Trên các bức tường và các ngôi mộ, các Kitô hữu đã khắc những biểu tượng từ Thánh Kinh và cả được sử dụng phổ biến thời đó bởi xã hội Hy-La. Một cách khéo léo để sống kín đáo nhưng vẫn biểu lộ việc họ thuộc về Chúa Kitô. Những ví dụ rất đẹp vẫn còn có thể thấy được trong các hang toại đạo ở Rôma.

Dưới đây là một số biểu tượng được các Kitô hữu sơ khai sử dụng :

Cây nho

Trong Thánh Kinh, không thiếu cây nho. Biểu tượng thiên sai rất mạnh mẽ, cây nho đã xuất hiện từ sách Sáng Thế Ký khi No-ê trồng cây nho đầu tiên, gợi nhớ về khởi đầu của một kỷ nguyên mới. Tượng trưng cho Đấng Thiên Sai, là cây nho phì nhiêu và cứu độ, cây nho cũng tượng trưng cho dân được tuyển chọn, được vun trồng bởi người trồng nho là Chúa Kitô. Chúa Kitô nói: “Thầy là cây nho thật, và Cha Thầy là người trồng nho. Cành nào gắn liền với Thầy mà không sinh hoa trái, thì Người chặt đi; còn cành nào sinh hoa trái, thì Người cắt tỉa cho nó sinh nhiều hoa trái hơn” (Ga 15, 1-2).

Chrisme (chữ viết tắt của Ἰησοῦς Xριοτόs (Giêsu Kitô)):

Được hình thành từ các chữ cái đầu trong tiếng Hy Lạp của Ἰησοῦς Xριοτόs : I (iota) và X (khi) hay đôi khi từ các chữ cái đầu của từ Xριοτόs (Kitô): X (khi) và P (rhô), “Chrisme” xuất hiện dưới triều đại hoàng đế Constantin. Truyền thống kể rằng hoàng đế đã giương nó lên ngọn cờ của mình trong trận chiến thắng Milvius vào năm 312. Là biểu tượng thực sự của các hoàng đế Kitô giáo, tuy nhiên, biểu tượng này có một nguồn gốc lâu đời hơn vì nó từng được sử dụng nơi người Hy Lạp, viết tắt của từ χρηστός / khrēstós, và chỉ có nghĩa là “hữu ích, điềm tốt lành”.

Alpha và Omega

Chữ cái đầu tiên và cuối cùng của bảng chữ cái Hy Lạp, Alpha và Omega nhắc nhớ rằng Thiên Chúa là khởi đầu và tận cùng của mọi sự. “Đức Chúa là Thiên Chúa phán: “Ta là An-pha và Ô-mê-ga, là Đấng hiện có, đã có và đang đến, là Đấng Toàn Năng.””, thánh Gioan viết trong sách Khải Huyền  (Kh 1,8). Biểu tượng này, được vẽ ở nến phục sinh được thắp vào đêm vọng Phục Sinh, đã từng được dùng nơi các Kitô hữu đầu tiên. Người ta thường nhận thấy nó được liên kết với biểu tượng “Chrisme”.

Đối với các Kitô hữu đầu tiên, cá trực tiếp gợi lên Chúa Kitô. Từ  trong tiếng Hy Lạp “Ichthus” cũng là từ viết tắt của thành ngữ “Ίησοῦς Χριστός, Θεοῦ Υἱός, Σωτήρ” (“Giêsu-Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ”). Ký hiệu này nhanh chóng trở thành phương tiện cho các Kitô hữu nhận ra nhau trong khi vẫn giữ kín đáo. Do đó, nó có mặt khắp nơi trên nhiều mặt nền, đặc biệt các đài tưởng niệm người chết. Theo thời gian, tiếng Latinh thay thế tiếng Hy Lạp, nên biểu tượng trở nên ít rõ ràng hơn và thánh giá bằng đầu được ưu tiên hơn biểu tượng cá.

Con Công

Hiếm hơn trong biểu tượng Kitô giáo, con công đôi khi được coi như là biểu tượng về sự bất tử, được thánh Augustinô khuyến khích. Ngài đã chỉ ra trong tác phẩm Thành Đô của Thiên Chúa rằng thịt của con chim này không bị hư hỏng, theo hình của thân xác của  Chúa Kitô ở trong mộ. Với nhiều màu sắc và đuôi hình chòm sao, nó cũng gợi lên bầu trời đầy sao và dàn hợp xướng của các thiên thần. Nếu, trong những thế kỷ đầu tiên của Kitô giáo, hình ảnh của nó là tích cực, thì vào khoảng thế kỷ X, hình ảnh của nó đã xấu đi khi các giáo sĩ nhìn thấy nơi nó một hình ảnh hư danh tự hào về bộ lông của mình.

Chim bồ câu

Là loài chim được gắn liền với thần Vệ nữ trong thần thoại cổ đại, chim bồ câu đã nhanh chóng trở thành biểu tượng của Kitô giáo về Chúa Thánh Thần. Một chọn lựa được giải thích bởi đoạn Tin Mừng về Chúa Giêsu chịu phép rửa: “Tôi đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người” (Ga 1, 32). Là biểu tượng tuyệt vời của hơi thở thần linh, chim bồ câu còn được gắn liền với hòa bình, sự trong sáng và sự trong trắng. Trong đoạn Thánh Kinh của sách Sáng Thế Ký với ông No-ê, nó là sứ giả mang lại niềm hy vọng mới cho nhân loại.

Chim phượng hoàng

Là con chim thần thoại, chim Phượng hoàng được sinh ra từ trí tưởng tượng của con người. Sức mạnh biểu tượng của nó đã được sử dụng vào thế kỷ VIII trước Chúa Giêsu, khi nhà thơ Hy Lạp Hésiode so sánh tuổi thọ của nó với tuổi thọ của con người. Biểu tượng của vĩnh cửu, câu chuyện về chim Phượng hoàng được kể trong cuốn Physiologus, sách ngụ ngôn đầu tiên về các con vật trong Kitô giáo. Bị đốt cháy trên bàn thờ, chim phượng hoàng tái sinh ngày hôm sau từ đống tro tàn của nó dưới hình thức một chú chim nhỏ. Rất nhanh chóng, các Kitô hữu liên kết nó với cái chết và sự phục sinh của Chúa Kitô và cả với sự sống đời đời được hứa cho mọi người.

Mỏ neo

Biểu tượng của đức tin và niềm hy vọng vào sự Phục sinh, biểu tượng mỏ neo xuất hiện từ thế kỷ thứ III trên các ngôi mộ và các bức bích họa của các hang toại đạo. Đôi khi được liên kết với cây thánh giá hay con cá, việc sử dụng nó nhắc lại những lời nói của thánh Phaolô trong Thư gởi tín hữu Do Thái: “Chúng ta có niềm hy vọng đó cũng tựa như cái neo chắc chắn và bền vững của tâm hồn” (Dt 6, 19).

Mục Tử nhân lành

Với chiên trên vai, hình ảnh Mục Tử nhân lành nhắc nhớ hình ảnh của Chúa Kitô Đấng Cứu Độ. Ngài là Đấng tập hợp các con chiên lạc. Chính Chúa Kitô đã giới thiệu mình như thế: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10, 11).

Được tìm thấy nơi các hang toại đạo, biểu tượng này đã được sử dụng trong bối cảnh lễ tang của thời Rôma và tượng trưng cho người đưa đò của các linh hồn, người đồng hành với họ đến thế giới bên kia.

Người đang cầu nguyện

Biểu tượng người đang cầu nguyện chỉ một người cầu nguyện, đứng hay quỳ,  hai tay dang rộng và hướng lên trời như một dấu cầu nguyện. Được biểu tượng nhiều hơn dưới các nét nữ tính, đối với các Kitô hữu đầu tiên, biểu tượng người cầu nguyện minh họa sự chiến thắng của sự sống trên sự chết. Đôi khi được đồng hóa với người chết được chôn trong mộ, người cầu nguyện đôi khi có dấu hiệu đặc trưng nào. Lúc đó, nó đơn giản được đồng hóa với đức tin hay với Giáo hội nói chung.

Tý Linh (theo Caroline Becker, Aleteia 12.02.2022)


Nguồn:xuanbichvietnam.net (14.02.2022)  
https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/nhung-bieu-tuong-cua-kito-giao-so-khai-44521

 “CHÚA JESUS TRÊN THẬP TỰ GIÁ”-TÁC PHẨM RẤT NỔI TIẾNG CỦA EMIL NOLDE (1867-1956)



Không phải tranh trẻ con. Đây là một trong những bức tranh nổi tiếng, của một hoạ sĩ người Đức (gốc Đan Mạch) nổi tiếng.

Emil Nolde là thành viên của nhóm “Cây Cầu” (Die Brücke)-những đại diện đầu tiên của chủ nghĩa Biểu hiện (Expressionism) ra đời từ đầu thế kỷ 20 ở Đức.

Phần lớn người Việt Nam ngỡ ngàng với dòng tranh này, bởi ít tiếp xúc, đặc biệt là bởi không được cập nhật kiến thức lịch sử nghệ thuật, dẫn đến thực tế không hiểu các đặc trưng của ngôn ngữ hội họa với các ý nghĩa PHẢN ÁNH, TƯỢNG TRƯNG và BIỂU HIỆN của nó, cũng như bản chất tự do của sáng tạo nghệ thuật...

Sẽ rất dài dòng nếu ngay lúc này biện giải về chủ nghĩa Biểu Hiện. Trong kinh nghiệm của mình, tôi biết rõ, có đọc bao nhiêu định nghĩa, bao nhiêu cuốn sách về chủ nghĩa Biểu hiện nói riêng, về nghệ thuật Hiện đại nói chung, nhưng không xem thật nhiều tranh, không xem tranh không đọc phê bình như “đập đầu vào tường”, như “vật lộn với Chúa” thì cũng khó mà có cảm nhận cho thật “chân thực”. Viết về nghệ thuật Công giáo, tôi đã phải đọc rất nhiều các bài viết phê bình tác giả tác phẩm, và tôi nhận ra, phần lớn, cũng bị mắc kẹt trong những ảo tưởng do kiến thức mang lại hay bị thành kiến chi phối hơn là cảm nhận chân thực. 

Để tránh cho người đọc mình bị rơi vào cái bẫy ảo tưởng hay thành kiến như vậy, trong trường hợp này, tôi chỉ đưa hình ảnh tranh mà không phân tích, dù sơ lược. Hãy cứ xem và cảm nhận. Ít nhất, cũng cần phải biết rằng, có những thứ mình chưa đánh giá được, và cần xem đó là thách thức đối với mình.

Đây là một bài viết trên mạng có thể tham khảo: http://modernistarthistory.blogspot.com/2015/01/22.html. Tuy nhiên, cũng cần biết, bài viết này, cũng chỉ mới chạm đến nội dung phản ánh và ngôn ngữ tượng trưng, chứ chưa chạm vào được ngôn ngữ BIỂU HIỆN của tranh...

Emil Nolde vẽ bức tranh này vào năm 1912. Đây là một bức tranh khổ lớn: 220,5cm x 193,5cm. Và được xem là tác phẩm thành công nhất của Emil Nolde.

Nguyên Hưng

(Trích từ sổ tay nghệ thuật Công giáo-2015)


“The Yellow Christ”, vẽ năm 1889, của Paul Gauguin

“The Artist With Yellow Christ” (1938) của Marc Chagall



“The Yellow Christ”, vẽ năm 1889, của Paul Gauguin


MỜI GỞI BÀI CỘNG TÁC CHO MỤC ĐỒNG 23

* Hiện nay MỤC ĐỒNG 22 “Dòng sông chữ Việt” đã dừng nhận bài về chủ đề này, chuẩn bị “chốt lại” bản thảo để gởi xin giấy phép và bắt đầu tiến hành dàn trang trình bày. Ngay sau đó, sẽ tiếp tục đọc chọn bài cho MỤC ĐỒNG 23 “Tháp chuông và Bến nước”, mời quý CTV bắt đầu gởi bài cho chủ đề này để kịp phát hành vào đầu tháng 8/2022 (Vì thế số này sẽ dừng nhận bài vào giữa tháng 6/2022). Xin giới thiệu trước “Lời mở đầu” của tập này như “gợi ý” về những nội dung chính để quý tác giả dễ hình thành ý tưởng cho bài viết. Ngoài ra, cũng có thể viết về những câu chuyện “sống Đạo giữa đời” của người Công giáo. Rất mong quý tác giả sớm gởi bài cộng tác để không bị “lỡ đò” (Cần gởi ít nhất trước 2 tháng so với thời gian dự kiến phát hành).


+ Lời mở đầu MỤC ĐỒNG 23 +

THÁP CHUÔNG VÀ BẾN NƯỚC


Tháp chuôngbến nước ư? Liệu có thể đặt cạnh nhau được không?

Tháp chuông là hình ảnh tôn giáo, biểu tượng của chốn thánh thiêng, uy nghiêm và tôn quý. Bến nước lại là hình ảnh của cuộc sống thường ngày, là chốn con người gặp gỡ quây quần giữa cõi hồng trần đa tạp vần xoay. Tháp chuông hướng mình theo chiều cao. Bến nước trải mình theo chiều rộng. Cùng với gốc đa và sân đình, bến nước là biểu tượng của đời sống làng quê mộc mạc, rất thuần Việt. Tháp chuông lại mang ít nhiều dáng dấp của một nền văn hoá khác, có vẻ Tây lắm! Hội nhập với nhau được chăng?

Được chứ! Hãy nghe thử một câu hát vọng lên từ làng quê Việt Nam thế này: “Làng tôi xanh bóng tre, từng tiếng chuông ban chiều, tiếng chuông Nhà thờ rung” (Văn Cao, Làng tôi). Thật bình yên và linh thánh, phải không? Thấp thoáng sau luỹ tre làng, tháp chuông đã hoà mình trở nên một phần của bức hoạ đồng quê yêu dấu. Trong tiếng rì rào của luỹ tre xanh, tiếng chuông vọng ngân mỗi chiều như một giọt cứu độ tự trời cao gởi xuống làm thánh lên cả một cõi hồng trần! Tiếng chuông nhà thờ là tiếng lòng của một tôn giáo có khởi đầu với một Người, đã từ bỏ tháp ngà tự trời cao vời vợi để dìm mình vào giữa bến nước cuộc đời. Ấy là tôn giáo nhập thế. Có Đạo trong đời. Có đời trong Đạo.

Mục Đồng tập 23 với chủ đề “Tháp Chuông và Bến Nước” là tuyển tập những bài viết về những mẫu chuyện đời thường của người trẻ Công Giáo trong môi trường văn hoá và xã hội Việt Nam. Họ là những người trẻ, có một tuổi thơ vui đùa bên bến nước làng quê. Tuổi thơ của họ cũng đã được nuôi dưỡng trong tiếng chuông đạo hạnh. Rồi họ lớn lên, xuôi mình theo dòng chảy của nhịp sống hiện đại, lạc trôi qua bao bến nước cuộc đời. Cuộc đời bao là bến nước. Biết bến nào đục, biết bến nào trong? Liệu họ có giữ được mãi trong lòng mình dư âm của tiếng chuông linh thánh năm nào? Liệu âm vang của tiếng chuông có đủ để cảnh tỉnh và giúp họ gạn đục khơi trong giữa bao bến nước cuộc đời hỗn mang đa tạp?

Tháp chuông đặt cạnh bến nước có được không? Được lắm chứ. Và cần lắm chứ. Tháp chuông hướng con người lên cao theo chiều dọc. Bến nước hướng con người gặp gỡ con người theo chiều ngang. Cần có đủ cả hai chiều kích thì người ta mới sống được trọn vẹn niềm tin của một tôn giáo nhập thế.

Nếu bến nước gần gũi với con người trong đời sống vật chất và văn hoá, tháp chuông nuôi dưỡng và giúp con người lớn lên trong đời sống tâm linh. Chỉ cắm cúi trong những bến nước cuộc đời, người ta dễ lạc mất mình lắm. Cần biết ngẩng đầu nhìn lên để lòng mình được hướng về trời, để đời mình tìm được một hướng đi và một lẽ sống. Chỉ cần ngẩng đầu nhìn lên, bao vất vả gồng gánh nặng nề bên bến nước cuộc đời sẽ trở nên nhẹ nhàng và thanh thoát. Những tạp nhạp sẽ được thánh hoá. Những niềm đau sẽ được cứu độ.

Xin hẹn gặp lại quý vị và các bạn trong tuyển tập Mục Đồng 24 “Những Ánh Sao Đời Thường”, viết về những giá trị văn hoá và thiêng liêng của dịp Lễ Giáng Sinh.