Vài bức “tranh Công giáo Việt Nam” của hoạ sĩ Vivi.


Vivi, tên thật Võ Hùng Kiệt (sinh 1945) là một họa sĩ người Việt nổi tiếng. Ông được biết nhiều với tư cách là một họa sĩ vẽ tranh minh họa và truyện tranh thiếu nhi tại Việt Nam trước năm 1981.

Người miền nam lứa tuổi lớn hơn tôi chút, có lẽ ai cũng mê những minh họa của ông trên nguyệt san Tuổi Hoa.

Năm 1981, ông vượt biên sang Canada và tạm định cư tại Montréal, đến năm 1995 sang sinh sống tại San Diego – Hoa Kỳ. Hiện nay ông sinh sống ở California, Hoa Kỳ.
















“ĐỨC MẸ ĐỒNG TRINH VÀ CHÚA HÀI ĐỒNG”-TÁC PHẨM NGHỆ THUẬT CÔNG GIÁO TRUNG QUỐC CỔ XƯA NHẤT.


Bức tranh lụa bồi trên giấy này, được giám đốc điều hành Field Museum ở Chicago, tên Berthold Laufer mua lại vào năm 1910, từ một gia đình nổi tiếng ở Tây An, Trung Quốc, gia đình đã sở hữu bức tranh qua nhiều thế hệ.

Trên tranh có dấu triện tên Tang Yin, một nghệ sĩ nổi tiếng sống từ khoảng năm 1470 đến năm 1523. Như vậy, theo các nhà nghiên cứu, đây là bức tranh Công giáo Trung Quốc cổ xưa nhất được tìm thấy và còn lại...

Nguyên Hưng

(Trích từ sổ tay nghệ thuật Công giáo-2018

 

Những bức tranh vẽ “Gia Đình Thánh”, “Đức Mẹ Đồng Trinh và Chúa Hài Đồng” rất “dễ thương” và được rất nhiều người yêu thích của nữ hoạ sĩ người Mỹ Flor Larios

Chân dung hoạ sĩ-người thích Thánh tượng Công giáo và thích tranh Frida Kahlo


Các loại quà lưu niệm in hình ảnh từ tranh của cô rất được yêu thích ở Mỹ...

Flor Larios nói: “Tranh của tôi vừa là sự khám phá cái đẹp, vừa là sự tìm kiếm sự kết nối giữa con người với nhau. Nghệ thuật của tôi là một hình thức thể hiện lấy từ chủ nghĩa nguyên sơ, phong cách ngây thơ, hình tượng theo phong cách Byzantine và kết hợp các phương tiện khác nhau. Nó là nguồn hạnh phúc đối với tôi. Khi tôi nhận được tin nhắn từ mọi người giải thích rằng những hình ảnh mà tôi vẽ đã chạm vào họ như thế nào, truyền cho họ sức mạnh, niềm tin, niềm vui... điều đó đối với tôi là vô giá.”

















 CỎ BA LÁ + GÓI HOA TRONG ÁO

Triều Thu + Đặng Trung Công


 “GIA ĐÌNH THÁNH” CỦA WANIWA LESTER (1932-2020)


Waniwa Lester là một hoạ sĩ, và là một nhà hoạt động xã hội nổi tiếng trong các cộng đồng thổ dân ở Úc.

Bà đã vẽ từ khi còn là một cô bé 8 tuổi tại một trường truyền giáo ở Ernabella xa xôi. Năng khiếu hội họa, với bà là “di truyền”. Theo bà, là một loại “di truyền văn hoá” tồn tại trong mỗi người dân bản địa. Từ năm 17 tuổi, xem tác phẩm của người khác vẽ theo kiểu phương Tây, bà học theo và phát triển kỹ năng của mình.

Lester cho biết từ lâu bà đã tin rằng những câu chuyện sáng tạo của văn hóa thổ dân và các phần của Kinh thánh Thiên chúa giáo có sự hòa quyện với nhau.

“Tôi vẽ những câu chuyện trong Kinh Thánh được dạy theo cách của chúng tôi và sau đó mở Kinh thánh để xem lại”-bà nói.

Waniwa Lester nói được nhiều ngôn ngữ bản địa, từ Yankunytjatjara, đến Pitjantjatjara, và cả tiếng Anh. Điều này đã cho bà nhiều điều kiện thuận lợi trong học tập, và trong công việc.

Bà đã từng đảm nhiệm nhiều công việc khác nhau với Bộ Thổ dân-chủ yếu trong lĩnh vực nghệ thuật và thủ công. Chính ở vị trí này, bà đã có rất nhiều đóng góp cho việc bảo tồn và phát triển nghệ thuật cũng như văn hoá bản địa nói chung.

Nhiều tác phẩm nghệ thuật của Waniwa Lester hiện được treo tại Yarthu Apinthi, Đại học Uniting, ở Adelaide.

Với bà, “nghệ thuật là ngôn ngữ của trái tim”...!

Bà Waniwa Lester và con gái...

Bức tranh “Bữa tiệc ly” rất nổi tiếng của bà...

 CHƯƠNG TRÌNH NGHỆ THUẬT THIẾU NHI CÔNG GIÁO "HÀNH LANG NHÀ CHÚA"

(Sau gần 10 năm chuẩn bị, từ việc xây dựng chương trình, biên soạn giáo trình, huấn luyện nhân sự nòng cốt, và tổ chức các lớp thể nghiệm..., đến nay, đã có thể triển khai...)


Thông qua việc dạy thực hành các hình thức Nghệ thuật Thị giác (Visual Art) để mang "ánh sáng Tin Mừng" đến cho mọi người (bao gồm cả người ngoại đạo). Và để bổ khuyết cho những bất cập của giáo dục phổ thông hiện thời-giúp các em rèn luyện tư duy, rèn luyện nhân cách, rèn luyện các kỹ năng giao tiếp cần thiết...

Thông qua chương trình này, các em sẽ học biết/hiểu các câu chuyện trong Kinh Thánh, cuộc đời và công nghiệp của các Thánh; sẽ học được các kỹ năng KỂ CHUYỆN THÁNH bằng các hình thức Nghệ thuật Thị giác (thủ công, điêu khắc, hội hoạ, trang trí, sắp đặt, và trình diễn). Và qua đó, cũng học được cách nắm bắt các quan hệ xã hội từ ý thức về bối cảnh, tình huống, nhân vật đến sự kiện hàng ngày; cộng thêm là để phát hiện, phát triển năng khiếu nghệ thuật...

Ý nghĩa chương trình không chỉ nằm ở quá trình học tập. Các sản phẩm, từ tranh, tượng, sản phẩm thủ công được làm ra, có thể được đem ra trưng bày ở hành lang nhà thờ, ở nhà giáo lý, để bất cứ ai cũng nhìn thấy nhằm ôn lại, ngẫm lại các câu chuyện trong Kinh Thánh, Công nghiệp của các Thánh; các tác phẩm độc đáo, có thể in thành postcard, thành sách tranh đem bán cho các mục đích từ thiện...

Chương trình có tên "Hành lang nhà Chúa". Từ đây, các em được dọn mình dưới ánh sáng Tin mừng và tình yêu cái đẹp để bước vào "nhà Chúa". Từ đây, các em cũng rèn luyện các kỹ năng giao tiếp cần thiết với bản lĩnh nhân văn Kitô giáo để bước ra "trường đời"

Chương trình này, có thể tiếp nhận cả các em không có Đạo vào học.

HÃY CÙNG NHAU THỰC HIỆN NÓ. 

(Các cha xứ, các dì phước, và các giáo lý viên nếu quan tâm, muốn biết thêm chi tiết để áp dụng, xin liên hệ trực tiếp với tôi qua msg. Sẵn sàng giải đáp mọi thắc mắc)






Quý tác giả và độc giả Bông Hồng Nhỏ thân mến!

Ban Biên soạn (BBS) tuyển tập Bông Hồng Nhỏ xin chân thành cảm ơn quý tác giả thời gian qua đã cộng tác với BBS trong tình yêu Chúa Kitô, để họa báo giáo dục dành cho thiếu nhi được ra đời và đến tay các em thiếu nhi Công giáo. Họa báo với truyện tranh, truyện ngắn, văn thơ và nhiều chuyên mục hữu ích nhằm giúp các em rèn luyện khả năng lắng nghe, vâng lời, thói quen đọc sách, phát triển kỹ năng văn chương, hội họa, biết suy tư để xứng đáng là con cái Chúa...

Với thời gian hai năm, phát hành được 24 số (từ 1-24), phần nào Bông Hồng Nhỏ đã đạt được mục đích của mình. Thành quả này công đầu ở nơi các em thiếu nhi đã đón đọc, học hỏi và tập luyện. BBS cảm ơn các em rất nhiều, chúc các em ngày thêm tuổi thêm khôn ngoan và lòng yêu mến Thiên Chúa, để các em thành nhân và thành tài khi bước vào đời.

Tuy nhiên vì nhiều lý do khách quan, số lượng phát hành chưa được rộng khắp, gánh nặng chi phí quá lớn, nên BBS rất tiếc phải thông báo đến quý độc giả: Từ năm 2022, tuyển tập Bông Hồng Nhỏ tạm dừng xuất bản để tìm phương cách phát hành hiệu quả hơn, được nhiều phụ huynh, thiếu nhi biết đến và quan tâm hơn.

Dù vậy, trong thời gian tạm đình bản tuyển tập Bông Hồng Nhỏ, mong quý tác giả vẫn tiếp tục gửi bài về email: tuyentapbonghongnho@gmail.com để BBS có được lượng bài phong phú cả chất lẫn lượng. Nhờ đó khi có điều kiện xuất bản và phát hành trở lại, tuyển tập Bông Hồng Nhỏ sẽ hay đẹp, hữu ích cho các em thiếu nhi hơn.

Tuyển tập Bông Hồng Nhỏ xin tạm biệt và hẹn gặp lại độc giả trong thời gian gần nhất.

Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.

Thân quý,

BBS.BÔNG HỒNG NHỎ


 TRANH VỀ “CÁC THÁNH ANH HÀI”

Liên quan đến “Các Thánh Anh Hài”, trong nghệ thuật, có hai mảng chủ đề lớn: thứ nhất, là “tôn vinh các Thánh Anh Hài”, và thứ hai, là “cuộc tàn sát các em bé vô tội”. 

Trước thời Phục Hưng-trước thế kỷ 15-hầu hết thánh tượng (icon) tập trung thể hiện chủ đề thứ nhất, nhưng kể từ thời Phục Hưng, các hoạ sĩ xem ra, lại hứng thú với mảng chủ đề thứ hai hơn. Từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 18, có hàng trăm tác phẩm vẽ về chủ đề này đã được thống kê, trong khi, ở mảng chủ đề thứ nhất, chỉ có một, hai tác phẩm.


Trong tất cả các tác phẩm ở cả hai mảng chủ đề, được đánh giá thành công nhất, là hai bức tranh cùng chủ đề “Cuộc tàn sát các em bé vô tội” và bức “Đức Mẹ Đồng Trinh và Chúa Hài Đồng cùng các Thánh Anh Hài” của Peter Paul Rubens tôi giới thiệu ở đây.

Bức thứ nhất, có kích thước 142cm x 182cm, Rubens vẽ vào năm 1608. (Bức tranh này được bán đấu giá tại Sotheby's, London vào ngày 10 tháng 7 năm 2002 với giá 49,5 triệu bảng Anh, tương đương 117 triệu đô la Mỹ, cho doanh nhân và nhà sưu tập nghệ thuật người Canada tên Kenneth Thomson. Người mua, đã tặng bức tranh cho Phòng trưng bày Nghệ thuật Ontario ở Toronto từ năm 2008)

Bức thứ hai, Rubens vẽ vào mấy năm cuối đời-khoảng giữa năm 1636 và 1638. (Bức tranh này được lưu giữ tại Alte Pinakothek, Munich từ năm 1706)

Bức “Đức Mẹ Đồng Trinh và Chúa Hài Đồng cùng các Thánh Anh Hài” Rubens vẽ năm 1616. (Vào năm 1671, được vua Louis XIV mua lại từ Monsieur de la Feuille và hiện đang được lưu giữ trong Bảo tàng Louvre, Paris, Pháp)

(Trích từ sổ tay nghệ thuật Công giáo-2016)


 TÂM SỰ CHIẾC ÁO DÒNG

Maria Đặng Thị Liên


Trong khi sử dụng tiếng Việt, có nhiều cụm từ khiến chúng ta phân vân không biết viết như vậy có đúng chính tả hay không? Nhằm giúp độc giả có nguồn tham khảo, BBT MDO chọn đăng lại một số bài viết từ nhiều nguồn. BBT xin phép có thể sẽ biên tập lại tiêu đề (tít), tiêu đề phụ và cách trình bày để nội dung rõ ràng hơn. Mở đầu là bài viết đăng trên TTO vào tháng 12/2016: Chính là chuẩn nhưng cả nước không ai nói chính văn phòng

---- 

Chính là chuẩn nhưng cả nước không ai nói chính văn phòng

TTO - Nói riết rồi tưởng sai là đúng, có người đã than như vậy trong một cuộc tranh cãi về hai từ chìu và chiều. Tham khảo từ điển mới biết ngay cả "các cụ" hoá ra cũng... hoang mang.

1. "Chiều chồng" với "chìu chồng": cái nào đúng?

Báo Tuổi Trẻ ngày 4-12 có bài viết Nhắm mắt chiều chồng, giữ “hạnh phúc”, một số độc giả viết thư nói chìu chồng mới đúng.


Thử giở từ điển xem sao: trong tất cả các từ điển của Hoàng Phê (Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, 2003), Lê Văn Đức (Tự - điển Việt - Nam, Khai Trí, 1970), Văn Tân (Từ điển tiếng Việt, NXB Khoa Học Xã Hội, 1977), Nguyễn Kim Thản - Hồ Hải Thụy - Nguyễn Đức Dương (Từ điển tiếng Việt, NXB Văn Hóa Sài Gòn, 2005)... đều không tìm thấy chìu dù với nghĩa gì.

Trái lại, các từ điển trên đều ghi chiều, ở đây là động từ với nghĩa “làm theo hoặc đồng ý cho làm theo ý thích để được vừa lòng”, còn xuất hiện trong chiều chuộng, nuông chiều.

Việc ghi nhận chiều, chứ không phải chìu, là phản ánh thực tế phát âm ở những vùng có phân biệt hai vần -iêu và -iu. Trong khi đó, ở miền Nam, -iêu hay lẫn lộn với -iu (và cả với -êu), cho nên các từ điều (kiện), đìu (hiu) (và đều) trở thành đồng âm... Đó là lý do một số người cho rằng chìu (chồng) là đúng chính tả.

Hễ có băn khoăn gì về chính tả thì lấy từ điển làm trọng tài. Giải pháp này giải quyết gần 100% trường hợp nghi vấn. Đây là giải pháp nhanh và tiện nhất.

2. "Lai căn" hay "Lai căng"?

Nói như thế cũng có nghĩa là từ điển không phải giải quyết được tất cả. Vẫn có một số ít từ không thống nhất. Lê Văn Đức viết lai căn, trong khi Văn Tân, Hoàng Phê, Nguyễn Kim Thản - Hồ Hải Thụy - Nguyễn Đức Dương... đều viết lai căng.

Đó là do quan điểm chính tả của các tác giả có khác nhau:

  • Lê Văn Đức chịu ảnh hưởng của Lê Ngọc Trụ (vả chăng chính Lê Ngọc Trụ hiệu đính từ điển Lê Văn Đức), chủ trương theo từ nguyên, giải thích căn ở đây là tiếng Hán Việt, nghĩa là “gốc, rễ”, nên viết không có -g
  • Còn các tác giả khác cho rằng cần phải theo cách phát âm thực tế: ở những phương ngữ có phân biệt âm cuối -n/-ng, như Hà Nội, (lai) căng bao giờ cũng phát âm với -ng.

3. Từ có nhiều cách viết 

Mặt khác, vẫn tồn tại một số từ có nhiều cách viết. Từ điển Hoàng Phê ghi cả hai hình thức: giậm/dậm (chân), (cái) giậm/dậm, giũa/dũa; hoặc ghi cả hai nhưng chuyển chú về một hình thức được coi là chuẩn hơn hoặc phổ biến hơn (a xem [x.] b): giông x. dông (tố), giẫy x. giãy, (chim) dang x. giang, (cây) dang x. giang, (rau) giền x. dền, rặm (mắt) x. nhặm, (cá) giếc x. diếc...

Dẫu sao, trong trường hợp này, người viết có quyền chọn một trong hai hình thức mà không bị xem là sai chính tả.

4. Vấn đề phát âm địa phương

Đa số trường hợp sai chính tả liên quan đến cách phát âm địa phương. “Địa phương” ở đây không chỉ là cách phát âm khác với miền Bắc - tiêu biểu là Hà Nội - như (tổng) cọng thay vì cộng, (con) hào - hàu ở miền Nam, mà ngay thủ đô cũng tồn tại cách phát âm “địa phương”, như giồng giọt - trồng trọt, con giai - con trai.

Tuy thế, vấn đề không đơn giản. Chẳng hạn, chính phủ được coi là chuẩn, còn chánh phủ là địa phương nhưng cả nước đều nói và viết chánh văn phòng, chánh thanh tra, chứ không ai viết chính văn phòng, chính thanh tra.

Hay ai cũng biết có một số chữ Hán có hai cách đọc - miền Bắc và miền Trung/Nam - như vũ - võ, hoàng - huỳnh..., nhưng đối với tên riêng buộc phải tôn trọng cách đọc do chủ nhân của cái tên ấy lựa chọn.

Vì thế, ai cũng đọc và viết Võ Nguyên Giáp, Huỳnh Thúc Kháng, chứ không phải Vũ Nguyên Giáp, Hoàng Thúc Kháng... Cho nên, xử lý vấn đề chuẩn/địa phương có khi phải căn cứ vào từng trường hợp một, chứ không thể giải quyết nhất loạt.

5. Phong cách văn bản 

Nhưng chuyện chính tả còn là chuyện phong cách văn bản. Khi viết, đặc biệt trong một số văn bản nghiêm ngặt như hành chính, khoa học, cần phải theo cách viết phổ biến; nên tránh những cách viết cũ (giẹp nên viết là dẹp, giụi - dụi) hay theo cách phát âm địa phương.

Trái lại, trong văn chương, một cách viết cũ hay đặc sệt địa phương có khi lại tạo nên một hiệu quả nghệ thuật không thể thay thế...

HOÀNG DŨNG

 “MỪNG CHÚA GIÁNG SINH” CỦA GEORGES DE LA TOUR (PHÁP, 1593-1652)


Georges de La Tour vẽ “Mừng Chúa Giáng Sinh” năm 1644. Có thể dễ dàng nhận thấy các ảnh hưởng từ họa sĩ người Ý Caravaggio (1571-1610) trong bức tranh này: cũng sử dụng nền tối và làm nổi bật đối tượng với độ tương phản mạnh...

Tuy chịu ảnh hưởng của họa sĩ Caravaggio, nhưng tác phẩm của Georges de La Tour có xu hướng trang trọng và yên tĩnh hơn, như thể thời gian đang dừng lại...

Bức tranh này, hiện đang được cất giữ tại bảo tàng Louvre ở Pháp.

Nguyên Hưng

(Trích từ sổ tay nghệ thuật Công giáo-2012)


 “Mừng Chúa Giáng Sinh” của Conrad von Soest (1370-1422) - một hoạ sĩ người Đức nổi tiếng. Bức tranh được vẽ năm 1403, diễn tả cảnh Đức Mẹ đang chăm sóc Chúa Hài Đồng, trong khi Thánh Giuse lo nấu nướng...



Trong bối cảnh văn hoá Công giáo nghiêm trang và khắc khổ như ở Đức đầu thế kỷ 15, một bức tranh tôn giáo với cách thể hiện “đời thường” thế này, là vô cùng hiếm hoi và, đáng yêu...

Tấm thảm thể hiện chủ đề "Giáng Sinh" nổi tiếng nhất của Hungary. Tấm thảm này (275 cm X 260 cm), được dệt bằng len, tơ tằm và sợi kim loại vào năm 1510, bởi Pieter van Aelst (khoảng 1450 - 1531/1533) theo thiết kế của Jan van Roome-một trong những designer nổi tiếng nhất thời đó  (hoạt động trong khoảng từ 1498 đến 1521). 

Hiện nó được lưu giữ tại Bảo tàng nghệ thuật ứng dụng Budapest.

Tấm thảm này, vào năm 2012, được định giá 220 triệu đô la Mỹ.

Nguyên Hưng 

 BÊN NGOÀI CON TIẾN BƯỚC

Mộc Trà



 “CHÚA GIÁNG SINH” CỦA NGƯỜI DA ĐỎ Ở PERU

Jeronimo Lozano là người gốc ở vùng Ayacucho của Peru. Thay vì làm các tiểu cảnh hang đá, hay lều cỏ thể hiện nơi Chúa giáng sinh, thì Lozano đưa tất cả vào một cái tủ gỗ. Ông làm tất cả, từ tạo hình nhân vật (làm từ hỗn hợp khoai tây / thạch cao, và vẽ chúng bằng tay) đến đóng và vẽ lên các tủ. 


Thực tế thì đây là cách ứng dụng kiểu tủ thờ di động gọi là “retablos” được du nhập từ Tây Ban Nha vào cuối thế kỷ 18. Ở Peru, hình thức “retablos” phổ biến chủ yếu ở các cộng đồng người nói tiếng Quechua (ngôn ngữ của người Inca) sống trên dãy núi Andes, gần thành phố Ayacucho. Họ thường làm các “retablos” thay cho các bàn thờ trong gia đình. Nó cũng được sử dụng để mô tả các hoạt cảnh tôn giáo, lễ hội và cuộc sống hàng ngày ở Peru.

Lozano đã trưng bày tác phẩm của mình trong nhiều viện bảo tàng.  Hiện ông sống ở Hoa Kỳ và tự coi mình là đại sứ cho nghệ thuật Andean. Ông mong muốn sẽ bảo tồn và phát huy bộ môn nghệ thuật dân gian truyền thống này.  

Theo Lozano, “Vào dịp Giáng sinh, những người nói tiếng Quechua ở vùng núi cao của Peru kỷ niệm sự ra đời của Chúa Giêsu bằng sự giản dị và sùng kính của đức tin. Họ luôn tạo ra những khung cảnh Chúa giáng sinh với hình ảnh trang phục truyền thống và bối cảnh của họ. Ba nhà thông thái đến thờ lạy Chúa chẳng hạn, được mặc quần áo để đại diện cho ba khu vực của Peru: bờ biển, núi và rừng rậm... Những truyền thống này đã được bảo tồn trong nhiều năm, nhưng gần đây có thể đã thay đổi và một số truyền thống ban đầu của dãy Andes đang bị mất đi”

Nhìn tổng thể cả “retablos”...

Tác giả Jeronimo Lozano với một “retablos” nhỏ của mình...

(Trích từ sổ tay nghệ thuật Công giáo-2016)


Hi, tượng “Giáng Sinh”, với hình ảnh “Chúa Hài Đồng” nằm chổng mông thế này, chỉ có ở Peru. Thật ngộ nghĩnh, đáng yêu...!


VÀI GHI CHÚ VỀ CÁC HÌNH ẢNH TRONG CÁC TÁC PHẨM NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN “CHÚA GIÁNG SINH”...

Hình ảnh trọng tâm của một cảnh Giáng sinh là Chúa Hài đồng và Đức Mẹ Đồng Trinh. Còn Thánh Giuse, các loại động vật, người chăn cừu và các nhà thông thái đều đóng vai thứ yếu. Lời tường thuật chi tiết nhất trong Kinh thánh về sự ra đời của Chúa Giêsu được tìm thấy trong Luca (2: 7), ghi lại rằng Maria “sinh hạ con trai đầu lòng của mình và quấn bằng khăn quấn, rồi đặt trong máng cỏ...”


Nghệ thuật Thiên Chúa giáo ban đầu mô tả Chúa Giêsu hài đồng trong những tấm vải quấn này-thường là một mảnh vải vuông được quấn vừa khít. Tuy nhiên, trong các hoạt cảnh thời Trung cổ và Phục hưng, Chúa Hài Đồng, được thể hiện mặc ít hoặc không mặc quần áo, và tỏa ra ánh sáng siêu nhiên. Điều này phù hợp với tầm nhìn huyền bí của Thánh Bridget (Birgitta) của Thụy Điển (1303-73), người tuyên bố đã nhìn thấy “đứa trẻ vinh quang nằm trên mặt đất, trần truồng và phát sáng” (Revelationes Coelestes: Quyển 7, Chương 21). 

Máng cỏ là một cái máng để cho gia súc ăn. Vào thời Kinh thánh, máng cỏ về cơ bản là những chiếc hộp, được chạm khắc từ đá hoặc được xây từ gạch. Tuy nhiên, trong các thể hiện hiện đại thì có rất nhiều kiểu máng cỏ, tùy thuộc vào phong tục vùng miền hoặc sở thích của nghệ sĩ. Máng cỏ thường làm bằng gỗ, chất đầy cỏ khô và đặt dưới đất trong chuồng bò, lừa. Tuy nhiên, ở Lào, máng cỏ là một chiếc nôi tre được treo lên xà nhà của một ngôi nhà để nôi có thể lắc lư-một đặc điểm chung của các ngôi nhà gia đình ở đó...

Ai cũng biết, Chúa Giêsu được sinh trong nghèo hèn, ở vào một hoàn cảnh không ổn định. Tân Ước nói chung không đề cập đến chuồng bò hay lừa, Luca (2: 7) chỉ kể lại rằng Maria “đặt Chúa Hài Đồng trong máng cỏ, vì không có chỗ cho họ trong quán trọ”. Những người theo đạo Thiên Chúa sớm nhất đã đặt máng cỏ trong một hang động. Nhà thờ Chúa giáng sinh, có từ thế kỷ thứ 4, được xây dựng trên hang động ở Bethlehem, nơi người ta tin rằng sự ra đời đã diễn ra. 

Trong nghệ thuật Thiên Chúa giáo ban đầu, hang động là bối cảnh cho các cảnh Chúa giáng sinh, và điều này tiếp tục được thể hiện với các Lễ hội Giáng sinh do Nhà thờ Thiên Chúa giáo phương Đông thực hiện. Các biểu tượng phương Đông đặt Đấng Cứu Thế mới sinh ở miệng hang sâu, để tượng trưng cho việc Ngài xuống tận đáy sâu của thân phận con người.  

Một chuồng lừa hay chuồng bò-nơi Chúa giáng sinh-hay được thể hiện trong nghệ thuật Tây Âu, mặc dù ở Ý mọi người thích hang động hơn. Trong các bức tranh của thời Phục hưng Ý, kiến ​​trúc La Mã đổ nát đôi khi xuất hiện trên nền của một cảnh Chúa giáng sinh để chỉ ra rằng, do sự ra đời của Chúa Giêsu, nền văn hóa ngoại giáo cũ đang bị mai một. Truyền thống thể hiện bao gồm các tàn tích cổ điển trong khung cảnh vẫn tiếp tục cho đến ngày nay...

Bò, lừa hay cừu không bao giờ được nhắc đến trong Tân Ước, nhưng hầu như luôn xuất hiện trong các cảnh thể hiện Chúa giáng sinh-cúi đầu trước máng cỏ. Sự xuất hiện này, một mặt, nhấn mạnh hoàn cảnh nghèo hèn, một mặt, cũng có những ý nghĩa tượng trưng nhất định... Và bởi các ý nghĩa tượng trưng, mà trong rất nhiều trường hợp, cảnh Chúa giáng sinh ngay cả Đức Mẹ Đồng Trinh và Thánh Giuse cũng vắng mặt. Chung quanh máng cỏ của Chúa Hài đồng, chỉ có bò, lừa và cừu...

Các lời tường thuật trong Kinh thánh nói rõ rằng Chúa Giêsu, Con Đức Chúa Trời, được sinh ra bởi một trinh nữ một cách kỳ diệu, và “tên của trinh nữ là Maria” (Luca 1:27). Luca ghi lại rằng Maria có mặt với Chúa Hài Đồng trong chuyến viếng thăm của những người chăn cừu (2:16), và Matthêu nói rằng khi các nhà thông thái đến, họ “nhìn thấy đứa trẻ cùng với Maria mẹ nó, và họ sấp mình xuống và thờ lạy nó” (2  : 11).  

Trong thực tế, hình ảnh Đức Mẹ Đồng Trinh đôi khi vắng mặt trong các tác phẩm nghệ thuật đầu tiên thể hiện Chúa giáng sinh, nhưng từ cuối thế kỷ thứ 5, người ta luôn tìm thấy bà nơi máng cỏ. Trong hàng nghìn năm đầu tiên của nghệ thuật Thiên Chúa giáo, Đức Trinh Nữ thường được miêu tả đang nằm xuống, trong một tư thế dường như nhằm thể hiện sự kiệt sức sau khi sinh con. Điều này bắt đầu thay đổi trong nghệ thuật Tây Âu vào thế kỷ 14, và từ cuối thế kỷ 15 trở đi, Đức Mẹ Maria thường quỳ gối, chắp hai tay cầu nguyện với Hài nhi thần thánh của mình. Thánh Giuse và những người chăn cừu cũng thường quỳ gối...

Tư thế quỳ gối của Đức Trinh Nữ, với hai tay chắp lại để cầu nguyện, phản ánh ảnh hưởng của một số tác phẩm của dòng Phanxicô và cũng như tầm nhìn huyền bí của Thánh Bridget. Theo tầm nhìn của Bridget, trước khi sinh “Đức Trinh Nữ đã quỳ gối với sự tôn kính lớn lao và cầu nguyện.” Sau khi sinh, “khi cúi đầu và chắp tay, với sự trang nghiêm và tôn kính, bà tôn thờ cậu bé và nói với Ngài: “Chào mừng, lạy Chúa, lạy Chúa con của tôi” (Revelationes Coelestes: Quyển 7,  Chương 21)

Trong các thể hiện hiện đại, tư thế quỳ dành cho Đức Maria chiếm ưu thế, hai tay đặt vào nhau để cầu nguyện hoặc bắt chéo trên ngực. Chỉ thỉnh thoảng mới thấy cảnh nằm nghiêng.

Trong Kinh thánh, Thánh Giuse, chồng của Maria, được mô tả là hậu duệ của Vua Đavít (Luca 2: 4) và là “người công chính” (Matthêu 1:19). Kinh thánh không tiết lộ tuổi của Giuse, nhưng trong nghệ thuật, theo truyền thống, ông được miêu tả là một ông già, đôi khi hói... Một số hình ảnh hiện đại vẫn giữ truyền thống này thể hiện Thánh Giuse với mái tóc bạc...

Trong hầu hết các tác phẩm nghệ thuật thể hiện Chúa Giáng Sinh, Thánh Giuse luôn chống gậy. Cây gậy nở ra những bông hoa Huệ tượng trưng gắn liền với hình tượng ông. Bắt đầu từ thế kỷ 15, các bức tranh đôi khi cho thấy Thánh Giuse đang cầm một ngọn nến. Ngọn nến này, có nguồn gốc từ một đoạn văn trình bày một khải tượng huyền bí của Thánh Bridget của Thụy Điển (1303-73). Thánh Bridget nói rằng, khi Chúa Hài Đồng được sinh ra, hang động nơi diễn ra cuộc sinh nở tràn ngập ánh sáng thần thánh không gì sánh được, hoàn toàn vượt trội ánh sáng trần thế từ ngọn nến của Thánh Giuse. Trong những thế kỷ sau, các nghệ sĩ đã thay thế ngọn nến của Joseph bằng một chiếc đèn lồng-không nhất thiết phải liên quan đến tầm nhìn của St. Bridget, mà chỉ đơn giản là để thắp sáng không gian trong chuồng ngựa hoặc hang động.  

Phúc âm Matthêu không đề cập đến những người chăn cừu, nhưng mô tả của Luca về vai trò của họ trong Lễ Giáng sinh kéo dài đến mười hai câu (2: 8-20).  Các nhà sử học nghệ thuật thường chia phần này của câu chuyện Giáng sinh thành hai cảnh-Sự truyền tin cho những người chăn cừu và sự tôn thờ của những người chăn cừu. Các hoạt cảnh thường miêu tả các mục đồng đang phản ứng với sự truyền tin, hoặc trong hành động thờ kính của họ...

Sự truyền tin cho các mục tử xảy ra vào ban đêm khi họ đang ở ngoài đồng trông chừng đàn chiên của mình. Một thiên sứ của Chúa hiện ra với họ, và “sự vinh hiển của Chúa chiếu rọi xung quanh họ, và họ tràn đầy sợ hãi” (Luca 2: 9). Tuy nhiên, thiên sứ cho họ tin mừng rằng Đấng Cứu Thế đã ra đời, và tiết lộ cho họ biết tại Bếtlêhem, họ sẽ tìm thấy “một đứa bé được quấn khăn và nằm trong máng cỏ” (2:12). Khi thiên sứ nói xong, nhiều thiên thần khác hiện ra với những người chăn cừu, nói rằng: “Vinh quang Thiên Chúa là Đấng cao cả nhất!” (2:14).  

Phúc âm Luca mô tả việc sau khi thiên sứ báo tin mừng cho những người chăn chiên, họ quyết định đến Bếtlêhem để gặp Chúa Hài đồng.  Họ “vội vã đi đến, và tìm thấy Maria, Giuse, và hài nhi đang nằm trong máng cỏ” (2:16). Sau đó, những người chăn cừu rời đi để rao truyền tin tức, “tôn vinh và ngợi khen Đức Chúa Trời về tất cả những gì họ đã nghe và đã thấy” (2:20). Có liên quan đến những đoạn văn này của Luca mà sự thờ phượng của những người chăn cừu lần đầu tiên xuất hiện như một chủ đề nghệ thuật trong thời Trung cổ. Tuy nhiên, Luca không nói cụ thể rằng những người chăn chiên tôn thờ Chúa Hài Đồng. Cảnh giáng sinh với những người chăn cừu quỳ gối bên máng cỏ có lẽ được phát triển bởi sự tương tự với các nhà thông thái, những người đã dâng lễ vật và “sấp mình xuống và thờ phượng ngài” (Matthêu 2:11). Sự tôn thờ của những người chăn cừu và sự tôn thờ của các nhà thông thái thường được kết hợp thành một cảnh Lễ Giáng sinh duy nhất. Trái ngược với các nhà thông thái, những người đã dâng những lễ vật đắt tiền là “vàng, nhũ hương và dược phẩm” (Matthêu 2:11), những người chăn cừu được miêu tả trong nghệ thuật như những người đại diện cho người nghèo. Họ ăn mặc giản dị, và đôi khi tặng những món quà khiêm tốn cho Chúa Hài Đồng. Matthêu không cho biết có bao nhiêu người chăn cừu đã có mặt tại máng cỏ. Khi mô tả người chăn cừu, các tác phẩm nghệ thuật, thường thể hiện một người trẻ, một người trung niên và một người già-đại diện cho các thành phần tuổi tác khác nhau...

Trong Tân Ước, câu chuyện về các nhà thông thái chỉ được tìm thấy trong Phúc âm Matthêu (2: 1-12). Theo Matthêu, các nhà thông thái “từ phương Đông” đến Giêrusalem hỏi: “Người đã sinh ra vua dân Do Thái ở đâu? Vì chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người ở phương Đông, và đến thờ lạy Người ”(2: 2). Khi ngôi sao xuất hiện trên nơi Chúa Hài Đồng được sinh ra, các nhà thông thái đã đến và “sấp mình xuống thờ lạy Người.”  Sau đó, họ dâng những món quà “vàng, nhũ hương và dược phẩm” (2:11).  Matthêu không cung cấp thêm thông tin về danh tính của các nhà thông thái này. Trong nghệ thuật, các nhà thông thái, thường được thể hiện như những đàn ông sang trọng, và giống như những người chăn cừu, họ cũng quỳ gối với những món quà của họ. Các tác phẩm nghệ thuật hiện đại có thể thay thế vàng, nhũ hương và dược phẩm bằng những món quà phù hợp với văn hóa địa phương của người nghệ sĩ .  

Matthêu không xác định chính xác số lượng nhà thông thái, nhưng nghệ thuật Thiên Chúa giáo sơ khai trình bày họ với số lượng là hai, ba, bốn hoặc sáu, với ba là phổ biến nhất. Cuối cùng, con số đã được cố định ở mức ba. Từ thế kỷ thứ ba, những người giải thích Kinh thánh đã bắt đầu xác định các nhà thông thái là vua. Vào thời Trung cổ, “ba vị vua” đã được miêu tả trong nghệ thuật với những chiếc vương miện và những bộ quần áo tinh xảo. Nhiều hoạt cảnh hiện đại thể hiện Chúa Giáng Sinh tiếp tục truyền thống này.

Ở Anh, Bede đáng kính (mất năm 735) đã viết rằng các nhà thông thái đại diện cho ba phần của thế giới-châu Á, châu Phi và châu Âu-và họ biểu thị ba người con trai của Nôê, người đã sinh ra các chủng tộc của ba lục địa này (xem Sáng thế ký chương 10). Theo thời gian, ý tưởng này được thể hiện trong nghệ thuật, và vào cuối thời Trung cổ, một trong những vị vua thường được miêu tả là người châu Phi da đen. Các vị vua đôi khi được đi cùng với các tùy tùng, bao gồm các động vật từ nơi xuất xứ được cho là của họ;  lạc đà, ngựa và voi là phổ biến nhất...

(Trích từ sổ tay nghệ thuật Công giáo-2016)