BÔNG HỒNG NHỎ SỐ 12: BÊ-LEM NĂM XƯA


VĂN TẾ KÍNH Á THÁNH ANRÊ PHÚ YÊN

Sơn Ca Linh

 

 ANRÊ PHÚ YÊN 

PHONG CÁCH TRẺ TRUNG VÀ THÁNH THIỆN

ĐGM. Mathêô Nguyễn Văn Khôi (GP. Qui Nhơn)


 BÔNG HỒNG NHỎ SỐ 11: ĐÓA HỒNG KỲ DIỆU


 Giới thiệu sách: QUÁN NƯỚC ĐẦU LÀNG

Nguyễn Trung Tây



ĐƯỜNG PHƯỢNG VÀNG TRONG SÂN NHÀ THỜ

Trần Tuy Hòa

 

 LỜI MỞ ĐẦU "ĐƯỜNG PHỤC VỤ"

Ban biên soạn


 MÙA ĐÀO LỘN HỘT

Lê Thị Ngọc Nữ
(Tp.HCM) 


Tháng Ba về, nắng chuyển mùa chớm hè làm tôi nhớ thiết tha cái bóng mát nơi gốc đào lộn hột, nhớ mùi hương thoang thoảng của trái đào chín, thèm tô canh đào má nấu…

Mùa đào lộn hột trong tôi bắt đầu từ những ngày Tết Nguyên đán, khi những chùm hoa màu đỏ tím rung rinh trong gió xuân toả hương nhè nhẹ. Ba tôi không trồng đào thành vườn như người ta, ba chỉ chọn giống đào ngọt ít chát, trồng vài cây từ đầu ngõ vào đến trước sân nhà. Sáng sớm những ngày Tết, tôi thích dậy sớm chạy ra sân ngắm hoa đào rụng, sau một đêm hoa đào rụng tím đầy như xác pháo.

Trên những cành đào xuất hiện chi chít những hạt non màu xanh lá, dần dần ngã màu phơn phớt tím, nơi cái cuống phình to lên hình thành quả đào. Ban đầu là màu xanh lá cây, khi các em ấy "trổ mã" thì có nàng khoác áo vàng chanh, nàng áo đỏ tươi, nàng khoe màu đỏ thẫm.

Mùa chờ đợi cũng về, những trái đào căng mọng, ú na ú nần, trĩu nặng từng chùm trên cây như những chiếc lồng đèn nho nhỏ. Cái hạt trưởng thành đã cứng cáp, hình thận khuyết một bên trông đẹp lắm. Tôi hít thật sâu mùi hương đào chín, mãi đến bây giờ mùi hương ấy vẫn phảng phất bên tôi khi nhớ về những kỷ niệm ngày thơ ấu...

Chị em tôi đều là con gái nên ba cấm không cho leo trèo lên cây, thu hoạch đào là chờ các nàng ấy chín rụng. Sáng sớm, ba chị em đem thau, rổ ra gốc đào lượm trái chín.Sau một đêm, dưới những gốc đào, trên lớp lá khô dày rụng từ mùa gió bấc đầy trái, chị em tôi tha hồ lượm.Tuy là trái rụng nhưng nguyên vẹn và sạch bóng, vừa lượm vừa chùi vô áo rồi ăn. Ôi, ngọt lịm, tươm đầy nước thơm nồng. Trước khi đi lượm đào, má bắt buộc mấy chị em tôi phải thay đồ màu tối để tránh dính mủ dơ, giặt không ra.

Vì đào nhiều lắm nên mỗi trái chúng tôi chỉ cần vặn lấy hột theo chiều kim đồng hồ, gom về nhà. Phần trái thường chỉ ăn phần phình to gần hột, còn phần gần cuống vừa nghe có tí vị chát là quăng ngay. Thu hoạch thật nhiều từ những quả đào chín rụng, nhưng chị em tôi vẫn ngước nhìn các nàng vừa chín ửng đang treo trên cây mà thích thú, cố với tay níu oằn cành để hái.

Mang đào về nhà chị em tôi nâng niu lấy hạt. Má dặn dò là phải vặn nhẹ theo chiều kim đồng hồ, đào mới không bị dập. Xong công đoạn lấy hạt, má rửa sạch và chia thành từng nhóm: Trái nguyên vẹn thì để dành ăn sống; trái hơi dập thì để chế biến thức ăn; trái dập nhiều thì vắt lấy nước, sên thành thứ xi-rô mà nhà tôi quen gọi là rượu đào. Rượu đào chữa bệnh đau bụng, khó tiêu rất hay, chỉ cần một cốc nhỏ thơm ngon dễ uống là hết khó chịu ngay, chị em tôi gọi là thuốc tiên. Má tôi làm mấy chai rượu đào để dùng cả năm đến mùa đào năm sau.

Đào được má chế biến thành rất nhiều món ăn ngon, cả chay và mặn. Ba tôi thích món khô cá sặc trộn với đào. Tôi lẽo đẽo theo học nghề của má. Ba nướng khô thơm nức, hai nhỏ em cùng ba xé khô, lấy phần thịt bỏ xương. Tôi chạy ra sân sau, hái mấy quả dưa leo xanh mướt, một nhúm rau răm, mấy trái ớt đỏ tươi rửa sạch mang vô bếp cho má. Dưa leo lấy phần giòn, bỏ phần ruột mềm. Trái đào xắt làm sáu, vắt nhẹ cho bớt nước, nước đó má để sên xi-rô rượu đào chứ không bỏ rau răm, tỏi ớt... Tất cả trộn đều, thêm miếng củ hành tím phi giòn, ít muối ít đường vì đã có đào ngọt và khô mặn. Một dĩa khô trộn đầy màu sắc đỏ vàng của đào, đan xen màu xanh lá của dưa leo và cần tàu, màu vàng nâu của khô, lấm tấm trắng đỏ của tỏi ớt băm, hòa nhau ngon lành cả hương lẫn vị. Có món này, ba tôi ăn những năm chén cơm!

Tôi thì thích món canh chua đào do chính tay má nấu. Sau này tôi cũng được thưởng thức món này do nhiều người nấu, cả tôi dù được học nghề nơi má, vẫn không sao sánh bằng từ hương đến vị. Canh chua đào má nấu sử dụng cây nhà lá vườn thôi: Cá đối ba đi chài trong vuông dưới mé sông, tươi sống tròn lẳn; cần tàu và lá me non sau vườn… Chỉ thế thôi mà với bàn tay "ngự trù" má đã làm cho con ghiền món canh đào đến thế! Tôi khác với ba, tôi chỉ ăn nửa chén cơm nhưng với hai tô canh đào. Đào trong canh má nấu mềm mà dẻo, có thể lấy đũa dẻ ra được nhưng không bở. Tô canh nóng hổi bốc mùi thơm ngọt ngào, vị hơi chua, từng muỗng tan vào miệng thanh tao... Nhắc đến mà nghe thèm làm sao!

Ngủ trưa dậy, mấy chị em buồn miệng, đâm một chén muối ớt, cắt dĩa đào và hít hà. Màn ăn đào chấm muối ớt luôn bị sặc, nhưng chị em tôi vẫn rất thích thú. Má nấu cơm chiều xong, ba vùi hột đào trong bếp than, mùi dầu trong vỏ hột đào tươi thơm nồng. Chị em tôi dạt ra xa vì hột đào thỉnh thoảng bay cái vèo ra khỏi bếp than. Ba lấy hai viên đá đập vỏ, lấy phần nhân hột để ra dĩa cho chúng tôi. Như "tằm ăn rỗi", ba tôi phục vụ không kịp ba cái "tàu há mồm"!

Ngoài các món ngày mặn, đến ngày chay, má kho đào ăn cũng rất ngon. Má còn có tuyệt chiêu sên mứt đào, sáng điểm tâm ăn kèm với bánh mì ngon như mứt thơm. Lá đào non ăn với bánh xèo, bánh tráng tôm thịt, cả chấm nước cá kho cũng ngon tuyệt.

Mùa đào qua. Mùa đào đến.

Tuổi thơ qua. Kỷ niệm nhớ hoài.

Tháng Ba lại về… Nôn nao một mùa đào lộn hột.

 GIÁNG SINH CÓ MÙI BÁNH TIÊU

JB Nguyễn Phi Long, S.J.
(Học viện Thánh Giuse, Dòng Tên VN)

Lần đầu tiên trong đời, Hào mới biết được Giáng Sinh có mùi vị thế nào. Lặng thầm quỳ bên máng cỏ mà lòng nó nghĩ vẩn vơ những chuyện đã xảy ra trong cuộc sống của mình. Cũng từ chính đêm Giáng Sinh năm ấy, Hào trở nên mạnh mẽ và xác quyết hơn về mùi vị bình dị mà rất đỗi thân thương của mầu nhiệm Giáng Sinh.

Nhà của Hào nằm sâu trong con hẻm nhỏ ở quận 2 (Tp.HCM). Phía sân trước, ba của Hào đã khéo léo sắp đặt những bụi hoa đủ màu sắc. Giáng Sinh năm nay, ông đã trang hoàng cho khu vườn nhỏ ấy những dây đèn màu chớp nháy linh hoạt. Phần giữa vườn, Hào và mẹ có nhiệm vụ trang trí hang đá Bêlem. Chẳng biết hai mẹ con loay hoay thế nào mà đến tận trưa trật mới xong chỗ để đợi đón Chúa Hài Nhi. Đêm Vọng Giáng Sinh, sau khi cả nhà đã xem văn nghệ và dự thánh lễ ở giáo xứ trở về, ba của Hào trịnh trọng rước tượng Chúa Hài Đồng đã được cha xứ chúc lành, tiến đến hang đá giữa vườn trong tiếng hát “Đêm Thánh Vô Cùng” của hai mẹ con Hào. Không khí lúc ấy thật đơn sơ nhưng không kém phần nghiêm trang. Chiêm ngắm Chúa Hài Nhi vẫn còn thơm hương trầm trong máng cỏ, cũng khiến cho tâm hồn của Hào lâng lâng niềm vui khôn tả.

Dường như bức tranh cuộc sống của Hào được ba mẹ nhuộm cho một màu hồng sáng tươi vô tận. Nhưng cuộc sống vốn dĩ chẳng nằm yên bao giờ. Căn nhà chất chứa biết bao kỉ niệm của Hào nay đã được thay bằng một dự án cao cấp nào đó, mà trí óc non nớt của nó không thể tưởng tượng ra được. Điều mà nó có thể nghĩ ra là kể từ ngày mai, Hào sẽ phải chuyển sang ngôi nhà mới, nhỏ hơn hẹp hơn và không có vườn nữa. Cả nhà Hào chuyển vào ở trong một xóm trọ nghèo vùng ven quận 9. Có lẽ vì thế mà bức tranh của Hào dần dần xuất hiện thêm những gam màu tối. Ba của Hào đã không thể đưa nó đến trường được nữa, vì ba phải dậy rất sớm kịp giờ đi làm trên “con Cup” cà tàng. Còn mẹ Hào phải xin thôi việc trong văn phòng “Công tác xã hội” của phường vì điều kiện đi lại khó khăn. Mẹ Hào giờ lại chuyển sang nghề bán bánh bò, bánh tiêu cho bà con trong xóm nghèo. Trong xóm nghèo này, người Sài Gòn cũng có mà bà con từ những vùng miền khác đến tìm kế sinh nhai cũng có. Xóm nghèo nên nhìn cái gì cũng nhuốm “màu nghèo”! Gần nơi Hào ở có một nhà thờ cũng nghèo nhưng đẹp. Hào nghe người ta bảo là nhìn nhà thờ vậy thôi, chứ nó ngót nghét cả trăm năm tuổi rồi. Cứ thế, cuộc sống êm đềm trôi. Khi chuông nhà thờ vang lên như thể để gọi nắng mai thức dậy và để cho màn đêm nghỉ ngơi, thì Hào đã thấy mẹ đẩy xe đi bán. Hào bắt đầu biết rằng cuộc sống an vui ngày cũ đã trôi xa quá tầm với của nó mất rồi.

Nhiều thứ thay đổi, nhiều điều xảy ra, và cả những tiếng mẹ khóc nấc âm thầm giữa đêm làm Hào trăn trở. Giữa những bộn bề, có khi Hào cảm thấy mình trở nên thừa thải trong cuộc sống. Có lần Hào đi học về, bữa ăn tối hôm đó là bánh tiêu của mẹ. Chẳng nói gì thì Hào cũng hiểu là hôm nay mẹ lại bán “ế”. Đây có lẽ là lần thứ mười mấy Hào phải ăn bánh tiêu trừ cơm. Cắn một miếng bánh tiêu, và chỉ vậy thôi, nước mắt Hào chực rơi xuống trên nền đất mềm. Ba Hào không nói gì, mẹ cũng ngồi lặng thinh nhìn vào khoảng không đen kịt phía trước nhà…

Giáng Sinh trong xóm trọ nghèo, giáo xứ cũng tổ chức diễn hoạt cảnh. Hào được mời diễn vai mục đồng. Có lẽ, Hào nhận lời tham gia không phải vì thích thú làm diễn viên, nhưng đây là lý do tốt để nó có thể thoát khỏi khung cảnh tù túng và ngột ngạt ở nhà. Đêm diễn chính thức đã đến, Hào lên nhà thờ thật sớm để được hoá trang thành một con người khác. Không còn là Hào trong xóm trọ nghèo, nhưng là anh mục đồng với bộ đồ thơm tho mà các Sơ cho mượn. Bất ngờ, Sơ phụ trách thông báo là vai Đức Maria phải thay diễn viên, vì chị huynh trưởng Lê đã phải nhập viện. Giờ đã đến mà người đóng thế vai Đức Maria vẫn chưa thấy tăm hơi…

Rồi cảnh báo tin cho các mục đồng cũng đã đến, sứ thần Chúa xuất hiện trong ánh sáng mờ ảo. Âm thanh rộn rã và ánh sáng huyền hoặc khiến cho Hào tưởng mình đang đi tìm Chúa Hài Nhi thực. Các mục đồng đến bên máng cỏ và sà vào nơi Chúa Giêsu nằm. Hào đột nhiên thốt lên thật to: “Ơ”! Đức Maria liền đưa tay ra dấu giữ yên lặng. Đến vội quá nên Đức Maria chẳng kịp trang điểm phấn son gì cả, và đó chính là mẹ của Hào! Ánh nến lung linh và tiếng hát thánh thót “Đêm Thánh Vô Cùng” của cộng đoàn đã cho Hào cơ hội nhìn ngắm thật lâu “Đức Maria”. Ánh đèn sân khấu hắt lên tâm tưởng Hào một chuỗi dài những cảm xúc. Đôi bàn tay của mẹ dường như đã lấm tấm những nốt bỏng dầu vì chiên bánh. Gương mặt của mẹ nay đã không còn trắng trẻo như trước, mà thay vào đó là vầng trán với những nếp thời gian cùng đôi mắt chứa nhiều nỗi niềm.

“Ê Hào, ẵm Chúa kìa!” - Tiếng gọi của bạn diễn thúc vào Hào làm những suy nghĩ trong đầu Hào tan biến. Hào ẵm Chúa Hài Nhi lên. Chẳng biết từ khi nào, những giọt lệ rung rưng nơi khoé mắt của chú mục đồng tội nghiệp. Chúa Hài Nhi trong tay Hào thơm mùi bánh tiêu, và bàn tay Giêsu cũng nhẵn bóng vì dầu chiên mà mẹ Hào chưa kịp rửa hết, khi vội chạy đến nhà thờ từ xe bán bánh của mình... Đêm hôm nay, Hào có được cảm giác của người được yêu, cảm nhận được mùi vị của một thứ tình yêu thầm lặng và hy sinh.

Về nhà sau đêm Vọng Giáng Sinh, Hào đã ù chạy ra sân sau nơi mẹ đang rửa đồ hàng, và ôm mẹ một cái thật chặt rồi khóc oà. Có lẽ, mẹ và ba không biết được điều gì đã khiến Hào khóc. Sau cùng, Hào đề nghị cả nhà mừng một đêm Giáng Sinh thật trọn vẹn bằng cách làm “hang đá xe bánh tiêu”. Hào lấy trên đầu tủ chiếc máng cỏ mà mình đã làm hồi trước, đặt lên xe bán bánh tiêu của mẹ. Cả nhà cùng đọc kinh và hát vang bài hát “Đêm Thánh Vô Cùng” như xưa. Đặc biệt, ba Hào nhận Chúa Hài Nhi từ Hào và đặt vào máng cỏ. Trong khoảnh khắc ấy, chỉ có Hào mới hiểu cái cảm giác hạnh phúc tràn ngập tâm hồn. Và cũng từ lúc ấy, Hào mới biết rằng Chúa Giêsu Hài Nhi có… mùi bánh tiêu!

CÔ GIÁO VỀ BẢN

Ý Thu 


 SẤM TRUYỀN CA - 2000



 KỶ NIỆM 350 NĂM “SẤM TRUYỀN CA”


Tại Việt Nam, ít ai biết được rằng 150 năm trước khi thi hào Nguyễn Du qua đời (1820), văn chương Công giáo đã có một tác phẩm lục bát bằng chữ Nôm đạt mức tuyệt tác:  Tác phẩm Sấm Truyền Ca (1670), diễn ca 5 quyển đầu của Cựu ước, do cha Lữ Y Đoan, một trong những linh mục thế hệ đầu của địa phận Đàng Trong. Cũng chính năm 1820 tác phẩm được phiên âm sang chữ quốc ngữ.

Sau một vận mệnh hẩm hiu suốt hơn ba trăm năm, cuối thế kỷ XX chỉ còn hơn 1/5 tác phẩm sống sót: Sách Sáng Thế Ký (Tạo đoan kinh) và 21 chương đầu của sách Xuất Hành (Lập quốc kinh). Năm 1993 một số trí thức Công giáo đã thực hiện hồ sơ “Về các tác giả Công giáo thế kỷ XVII-XIX”, do Khoa Ngữ Văn, Đại học Tổng hợp Tp HCM ấn hành. Quyển sách đã giới thiệu tác phẩm Sấm Truyền Ca đến công chúng.

Giáo sư Nguyễn Văn Trung đã có công bảo tồn, đưa bút tích sang Canada. Ông và các cộng sự viên đã có công nghiên cứu đối chiếu, thực hiện bản văn hiệu đính mang tính khoa học và năm 2000 Tập san Y Sỹ ở Montreal đã xuất bản tập 1: Tạo Đoan Kinh.

Tháng 8/2020, nhóm phụ trách Tủ sách Nước Mặn của Giáo phận Qui Nhơn chợt nhận thấy cần ấn hành lại quyển sách để chào mừng tròn 350 năm của tác phẩm và giới thiệu với độc giả trong nước. Tại Việt Nam, ấn bản Canada của quyển sách hết sức họa hiếm. May thay cuối cùng, đã tìm được một bản photocopy ở Thư viện Học viện Đa Minh, Gò Vấp, và một  ấn bản gốc ở Thư viện Mân Côi Bùi Chu. 

Tại Giáo phận Qui Nhơn, từ năm 2012 đã có truyền thống họp mặt các tác giả Công giáo vào ngày 21-22/9. Năm 2020, do phòng ngừa đại dịch, dịp ấy chỉ có hơn 20 tác giả từ Tp Quy Nhơn và phụ cận họp mặt tại Chủng viện Làng Sông. Trong lúc chưa kịp hiệu đính để ấn hành phiên bản mới, Ban Tổ chức đã photocopy một phần quyển sách theo ấn bản Canada, trao tay các tham dự viên để giới thiệu và đánh dấu chào mừng kỷ niệm 350 năm việc biên soạn tác phẩm. Sau lễ Giáng sinh, ấn bản 2020 của Tủ sách Nước Mặn hoàn thành. Tối ngày 01/01/21, trong lễ ra mắt Ban Văn hóa Giáo phận Hà Tĩnh tại hội trường Giáo xứ An Nhiên, phiên bản 2020 của tác phẩm được trao tay các tham dự viên để một lần nữa đánh dấu sự kiện mừng 350 năm.

Cha Lữ Y Đoan không những để lại một thành tựu của Thế kỷ XVII về thơ lục bát tự sự rất hồn nhiên trong sáng mà còn đi trước thời đại chúng ta 300 năm trên bước đường Việt hóa và hội nhập văn hóa cả về phong tục và triết học.

Tại Mambrê ông Abram đã khoản đãi ba vị khách thần linh một bữa ăn Việt Nam:

Khách thần vui vẻ dừng chân,

6 Ra-ham liền gọi gia nhân cỗ bàn.

7 Sa-ra nướng bánh hạnh nhân,                           

8 Thịt chiên nhiều món, quay, hầm dọn ra.

“Khách thần cầm đũa dùng qua,

Hỏi thăm chủ trại: “Vợ nhà thể nao ?” (câu 803-808)

Về lịch trình sáng tạo, vị tiền bối của chúng đã dịch sáu ngày là sáu chu kỳ, trong đó Thiên Chúa đã dựng nên lưỡng vực sáng tối âm dương và ngũ hành:

1 Hằng sinh Thượng đế đại quyền,              

Tự không sáng tạo phán truyền hoằng khai;

Càn khôn bỗng chúc phôi thai                    

2 Hư hư hàn vũ, dày dày u minh.

Thánh thần sinh hóa vận trình,                             

3 Đột nhiên quang ánh lộ hình khắp nơi.

4 Ban khen trong sáng tuyệt vời                            

Liền phân lưỡng vực muôn đời đối nhau:

5 Gọi ngày, dương khí làu làu,

Gọi đêm, âm khí phủ bao mịt mờ,

Hoàng hôn chuyển tiếp minh sơ,

Chu kỳ thứ nhất, thiên cơ ứng hành.           

6 Không gian phát động mở màn,                          

7 Thủy hành nhị khí đành rành dưới trên.

8 Trên thì danh gọi cao thiên

Chiều đi mai đến tiếp liên chu kỳ

9 Thổ phân, thủy lập biên thùy                              

10 Thổ là đại lục, thủy thì đại dương

11 Lịnh bán hành mộc tự cường,

12 Ngàn hoá vạn thảo ứng tường phát sinh

(câu 09-28)

Những câu tiếp theo nói về hành hỏa (mặt trời và mặt trăng). Mời quý độc giả xem lời giới thiệu của Đức cha Matthêô Nguyễn Văn Khôi về hội nhập văn hóa và lời nói đầu của Tủ sách Nước Mặn về số phận long đong của tác phẩm.

Chúng tôi xin được đính kèm đây hai file PDF: ấn bản Canada 2000 và ấn bản Nước Mặn 2020 để độc giả tiện đối chiếu. Quý vị nào cần mua sách in,  có thể đặt sách trực tuyến tại Đồng Hành Books trên mạng Tiki è https://tiki.vn/cua-hang/nha-sach-cong-giao-dong-hanh, giá bìa 45.000 đ

hoặc tại <tusachnuocman@gmail.com>, sđt: 0358-521-717.

 

Lm. Trăng Thập Tự

Tủ sách Nước Mặn - Gp. Qui Nhơn


 LỜI CỦA TRÁI TIM

Lê Quang Trạng
(An Giang) 


Từ trong vùng ký ức hiện ra, một khung cảnh cũ. Nơi đó có ngôi làng ven sông, có ngôi thánh đường vươn ngọn tháp chuông vào bầu trời cao thăm thẳm. Mỗi chiều, khi vừa tan học về, Thành cùng Trân hay đến thánh đường chơi. Trân không biết Chúa là ai, cũng không biết Công giáo là gì. Thành nói không sao, để Thành nói cho Trân nghe… Bây giờ, những điều Thành nói năm xưa Trân không còn nhớ nhiều nữa. Hình như Trân đã quên gần như tất cả, hay đã bỏ rơi dọc con đường mưu sinh và thù hận mấy mươi năm qua. Duy nhất một điều, Trân không bao giờ quên. Một điều duy nhất!

Vùng ký ức lại mở ra, hai đứa trẻ cảm mến nhau tự lúc nào, sau những buổi chiều chuông thánh đường đổ dài trên từng hàng cây, nhánh lá xứ quê. Một bữa nào đó, Thành nói: “Mai mốt Thành sẽ nói với má cưới Trân nha”. Trân đỏ mặt cười: “Dạ, anh đi đâu thì em sẽ đi theo đó”. Lời nguyền yêu đương của thời trẻ dại, đẹp đẽ biết bao nhưng thường thì sẽ không thành hiện thực sau một bức rào nào đó.

Sau đó không lâu thì có đoạn, Trân vừa khóc vừa lay vai Thành hỏi: “Vì sao? Vì sao mình phải chia tay? Thật ra là có bức rào nào?”. Thành lặng im không nói được. Thật ra, làm sao để Trân có thể hiểu được, chỉ vì một sơ suất trong chuyện bài bạc và làm ăn thua lỗ của cha, mà người ta đã vùi thân cha trên một cánh rừng nào đó. Họ đến xiết nhà và dọa, sẽ không để yên nếu không đủ tiền trả họ. Mẹ biết, mẹ vẫn thường khóc với Thành: “Cha con có nợ người ta thật sự, thì làm sao mình có thể trốn tránh mà không trả hở con”… Mẹ Thành dần suy sụp. Chỉ mấy đêm thôi mà mẹ già trông thấy.

Lúc Thành nói lời chia tay Trân, cũng là lúc mẹ Thành đã ra người nửa điên nửa dại. Thành biết, mình khó có thể đem lại hạnh phúc cho Trân. Mẹ Thành qua đời ở bệnh viện, sau lần bà phóng ra giữa đường lúc nửa đêm, và chiếc xe chở gỗ thì không tài nào thắng kịp. Thành sụp đổ hoàn toàn. Và nỗi đau ấy anh chỉ biết nương tựa vào nơi Chúa.

Hôm đưa mẹ về đất Thánh, Trân đứng khóc bên góc nhà thờ. Thành biết giọt nước mắt ấy không giống như nước mắt của nỗi đau vừa mất một người thân. Mà đó là giọt nước mắt nhìn thấy tình yêu mình đang bấp bên như con thuyền đang lênh đênh trên biển, không biết sóng gió bất ngờ khi nào và bờ bến ở nơi đâu… Thành biết, hai chữ bình yên, là thứ mà người ta cần có để sống được trên đời…

Thành tìm mọi cách né tránh Trân trong khi cô vẫn không ngừng tìm cách gặp Thành. Cứ mỗi lần gặp được là mỗi lần cô khóc như muốn trút cạn cả sông lẫn biển. Ngày tốt nghiệp sắp đến, Thành ôm di ảnh của cha và mẹ gửi ở nhà cậu, ngôi nhà sàn rách nát hướng mặt ra sông. Thành không dự lễ tốt nghiệp, Thành cầm tấm bằng nhận trước đó, lên xe…

Xe dừng trước cổng tu viện, Thành chần chừ hồi lâu mới bước vào. Trước khi bước qua cánh cổng. Thành nguyện với lòng rằng, Thành phải bỏ giọt nước mắt lại bên ngoài và phải đem đến sự an yên cho những người khác nữa. An yên đâu ở đâu xa. An yên đã đến với Thành trong suốt những ngày trong tu viện. Thành dần dần quen với không khí an lành bên vòng tay của Chúa cho đến ngày anh được thụ phong linh mục.

Hôm ấy, Thành bất ngờ khi thấy Trân đứng ở dưới thánh đường, tay cầm hoa, bước đến: “Em đã hứa, thì em sẽ làm cho bằng được, dù anh đi bất cứ nơi đâu, em cũng sẽ đi theo”. Thành cười nhẹ, Trân như có vẻ khó chịu trước nụ cười của Thành. Dường như Trân không hiểu nụ cười Thành mang ý nghĩa ra sao, hay Trân muốn ngay lúc ấy, Thành phải khóc vì cảm động …

* * *

Không ai hiểu được Trân nghĩ gì, nhưng sau đó ít lâu, khi cha Thành được chỉ định về coi xứ ở miệt Rạch Ròi - xứ xa hẻo lánh, nằm sâu trong mấy con kênh rạch, thì Trân cũng lục đục đi theo. Bằng mọi giá, Trân mua cho bằng được miếng đất gần nhà thờ. Trân mở một quán rượu. Dân ở Rạch Ròi hẻo lánh, buồn cũng nhậu, mà vui cũng nhậu. Từ ngày có quán của Trân mở, dân nhậu ở xứ này như có một trụ sở ban hội. Hễ hứng lên là đến nhậu, bất kể ngày hay đêm.

Cha Thành bắt đầu thấy dường như đất Rạch Ngòi cũng say theo men rượu của Trân. Khi cứ ít hôm, lại nghe có một vụ chồng đánh vợ, cha đánh con. Và điều ấy hiện hữu ở việc cánh đàn ông ngày một thưa dần mỗi bận lễ chiều. Họ tập trung vào “lễ nhậu” ở quán Trân. Quán đã đăng bảng rồi, “lễ nhậu bắt đầu lúc chuông đổ, giảm giá năm chục phần trăm”…

Vất vả lắm, Cha mới khuyên răn con chiên của mình được. Tình hình có vẻ ổn lại thì bề trên có lệnh điều cha đi coi xứ ở một nơi khác. Cha thở phào vừa nhẹ nhỏm vừa lo. Nhưng khi đến xứ Chợ Điệm không lâu, thì Trân cũng nhổ quán theo đến. Lần này Trân không mở quán nhậu, mà Trân lại mở quán đèn mờ. Trân quy tụ về đây những cô nàng áo quần hở lưng, hở rốn. Cha lại bắt đầu bị một cơn đau đầu mới khi ngày nào cũng có một vài thanh niên đến xưng tội vướng phải điều răn thứ Sáu. Cha thấy có điều gì đó không ổn, khi điều răn thứ Sáu lại xuất hiện ngày một nhiều hơn. Hôm rồi trong xứ lại xảy ra một vụ đánh ghen, mà người của xứ đánh một cô gái trong quán của Trân đổ máu. Ít hôm sau lại có việc hai thanh niên đánh nhau sau khi gặp ở quán của Trân, suýt chút nữa là có người chết.

Đêm. Cha khó mà dỗ được giấc ngủ, cứ mở mắt nhìn lên ảnh Chúa: “Xin Người cho con được vững vàng và cùng xứ vượt qua nghịch cảnh này”.

Nghịch cảnh có vẻ trớ trêu hơn, khi mấy hôm sau đó Trân xin Cha cho mình được là con của Chúa. Cha vừa mừng trong lòng nhưng cũng vừa âu lo. Không biết Trân có cải tà quy chánh thật, hay đang có ý gì đây. Cha ra điều kiện rằng, Chúa chỉ đón nhận những đứa con thật sự hướng thiện và đến với Người. Tức là Trân nên thay đổi nghề đi, nghề gì mà ảnh hưởng xấu đến nhiều người thì nghề đó không lương thiện được. Trân “vâng dạ” và dẹp quán xá, để được cha sở rửa tội, dạy giáo lý, trở thành con của Chúa. Nhưng sự việc bắt đầu phức tạp hơn, khi vừa là con Chúa xong thì Trân lại mở quán trở lại. Cứ mỗi lần đến tòa giải tội, Trân lại đem biết bao tội tình ra để kể với cha sở ngồi sau vách gỗ mà Trân biết chắc đó là Thành. Lần nào cũng vậy, trước khi nói rõ tội mình, Trân luôn hỏi vu vơ: “Người phụ lời hứa với con, dồn con vào đường cùng như vậy, mặc dù con chưa bao giờ bội ước, thì sao, thưa cha!”.

Đắn đo lắm, Cha Thành mới đem chuyện của mình lên tâm sự cùng bề trên: “Nếu không có sự trợ giúp của bề trên, chắc rằng con khó mà vượt qua được”. Nhưng bề trên nói rằng: “Con có nghĩ, đó là sự sắp đặt của Chúa, mà Người muốn con phải vượt qua”. Cha Thành giật mình, như lòng vừa nghe thấy một điều gì đó vừa thân quen vừa thiêng liêng, rất lạ.

Cha về xứ, chiều hôm đó là buổi lễ xưng tội. Người xưng tội cuối cùng là Trân. Cha nghe giọng Trân, lòng bắt đầu tự trấn an bằng một câu Kinh Thánh. Lần này Trân không kể lễ tội như lần trước nữa. Trân nói nhẹ nhàng: “Thành…”. Cha Thành im lặng. Hồi lâu, Trân nói tiếp: “Nếu mai tôi chết, Thành có điều gì muốn nói với tôi hay không?”. Cha bình lặng, cố mở mối rối ở lòng mình ra. Hồi lâu, rồi cha tháo tấm khăn các phép, nói: “Tôi xin lỗi Trân”. Cha nói tiếng của lòng mình, chính tiếng nói của Thành , “người phàm tục”. Nhưng cha biết, thể nào sau câu nói đó, Trân cũng sẽ bù lu bù loa cho coi.

Không như cha nghĩ, Trân không khóc, cũng không cười. Trân chỉ nói một câu: “Cầu Chúa sẽ luôn bên Thành như Thành đã vững lòng bên Chúa bấy lâu nay. Bây giờ tôi đã biết, Chúa không bỏ rơi Thành, và hy vọng Người cũng không bỏ rơi tôi”. Cha chợt thấy giọng Trân khác lạ. Và chờ mãi vẫn không thấy Trân lên tiếng nữa. Trân đã đi khỏi tòa giải tội từ khi nào rồi…

Từ hôm đó, không ai thấy Trân đâu nữa. Cho đến sáu năm sau. Một bức thư của dòng nữ tu cách đó hai trăm cây số gửi đến cha Thành, coi xứ Chợ Điệm. Thư báo rằng, một người trong dòng của họ vừa qua đời. Người ấy tên Sáu Trân, không rõ quê quán nơi đâu, chỉ biết người này từng nói là bạn của cha nên chúng con kính báo với cha hay.

Cha tức tốc thu xếp việc ở xứ và đến nhà dòng, ngay lúc nhà dòng sắp đóng nắp áo quan. Nhà dòng cho cha biết rằng, Trân đã lưu lạc đến đây sau khi cô bị tạc axit cháy gần hết khuôn mặt. Cô đến đây và xin tá túc ở nhà kho của dòng. Hàng ngày cô lo việc bếp núc và chăm sóc các sơ lớn tuổi. Cho đến hôm qua, nhà nguyện của dòng bị chập điện phát hỏa. Trong lúc hoảng loạn, mọi người không thấy Trân đâu, nhưng khi lửa đã tan, mọi người tìm được Trân nằm sấp ở dưới tượng Đức Mẹ ngã trên bục giảng. Lạ thay, bức tượng Đức Mẹ đã che cho Trân không bị lửa táp lấy. Nhưng Trân đã ngộp và qua đời, trên tay vẫn còn cầm chắc một bình chữa lửa chưa kịp mở khóa…

Cha lặng người, bước đến gần áo quan, nhìn vào bên trong tấm kính. Không cách nào cha nhận ra Trân, kể cả những câu chuyện mà nhà dòng kể, cha vẫn chưa tin Trân là người như vậy. Vẫn không sao hiểu được hết hành động của Trân. Nhưng bằng tình yêu của Chúa, cha tin, những điều khó hiểu hơn cả vậy vẫn có thể xảy ra trên đời.

Cha thầm nói, như nói với Trân: “Cảm ơn Trân!”

VỊ NẮNG

Lê Thị Cẩm Tú 



 NGƯỢC...

Nguyễn Chí Ngoan  
(Kiên Giang)

Chiếc ghe dừng lại trước nhà, người đàn ông có khuôn mặt lang ben ăn gần hết tuột xuống sông nói với lên bờ bằng cái giọng “kháp kháp”:

- Chủ nhà ơi, cho tui xin mót nhau trâu (*) dưới bến này nha.

Con Rớt ngồi trên cầu gật đầu cái rụp mà chẳng hề để ý gì đến động tĩnh của tôi. Người đàn ông cũng chỉ hỏi cho có lệ rồi lại bắt tay vào công việc của mình, vì cứ độ chừng nửa tháng người đàn ông đó lại tấp ghe vào hỏi xin mót nhau trâu quanh cái ghe mục trước nhà. Nghề mót nhau trâu bán cho chủ vuông tôm chẳng có là bao, nhưng cũng đỡ được phần nào cho người không có miếng đất cắm dùi giữa những ngày thất sở. Con Rớt ngồi trên cầu sàn lãn quẫy nước sông, miệng hát vu vơ mấy bài hát nửa vời. Người đàn ông mót nhau trâu như chẳng hề để ý đến mớ lời được phát ra từ miệng con Rớt. Nó đứng bật dậy, chống nạnh nhìn về phía người đàn ông luôn cúi mặt.

- Tui nghe đồn… ông thích Má tui!

Người đàn ông tháo dây, leo lên ghe giật máy chạy đi mất. Khói từ cái máy xập xình đâu có làm mờ dáng hình của người đàn ông trốn chạy. Tôi nhìn con Rớt lắc đầu.

- Chuyện người lớn… Em biết gì mà nói.

Con Rớt nhìn tôi tỏ vẻ không hài lòng.

- Ai biểu ổng nhát hít làm gì. Thương thì nói đại ra đi. Lòng vòng chi cho thiên hạ đồn rồi mắc cỡ.

Từ hồi ba con Rớt rửa chân leo lên bàn thờ, cánh đàn ông trong xóm mò đến nhà nó muốn rách đáy quần. Không dưng nhà có nhiều người đến, Má nó mở quán cà phê, thuốc lá buôn bán đắp đổi qua ngày. Người đàn ông mót nhau trâu vẫn thường đậu ghe lại, đứng cúi mặt trước nhà, miệng thều thào “Bán cho tui gói thuốc”. Mà chẳng bao giờ thấy ông hút thuốc!

Đàn bà trong xóm Lung cứ lườm nguýt mỗi khi đi ngang qua cái quán nhỏ có mấy cái bóng đèn chớp nháy liên tục. Những bà mẹ cũng tiện thể cấm tuyệt đối không cho con mình có bất cứ thứ gì liên quan đến con bà bán cà phê “không đường”. Con Rớt cười nửa miệng: “Tụi mày mới không xứng đáng chơi với tao”. Nó tự cho mình cái quyền hơn đám con nít bị “bỏ chữ vào mồm”, nó cũng không có nhu cầu làm thân với bất cứ ai. Nó vẫn thường khoác vai tôi, mắt nhướng nhướng lên trời:

- Thây kệ thiên hạ! Họ có nuôi mình được ngày nào đâu.

Sự dửng dưng của con Rớt cứ làm tim tôi đau thắt lại vào những buổi chiều buồn buồn. Má con Rớt sinh nó vào một ngày mưa như trút. Chiếc đò dọc được phủ kín bằng tấm cao su vẫn không thể nào gói được tiếng la khóc của Má nó. Chủ đò dọc cứ nhấp nhỏm ngó vào trong khe hở nhỏ, coi thái độ ông chồng. Hai người đàn ông lóng ngóng nhìn nhau trong màn mưa trắng xóa. Ba con Rớt thiếu điều muốn quỳ xuống mới làm lay động được ông chủ đò dọc, chở vợ đi đẻ. Đò cập trạm y tế xã, chủ đò dọc hoảng hồn khi thấy cánh tay bé xíu lạnh cóng đang quờ quạng trong mưa, người đàn bà rệu rã đầu tóc bù xù. Ba con Rớt bồng Má nó lên trạm xá trong cơn đuổi xua của ông chủ đò dọc. Người ta thường nói, xui nào bằng xui chở đàn bà đi đẻ. Gặp cảnh đẻ lọt trên đường thì có nước kéo ghe lên bờ trồng hành. Ông chủ đò đạp ghe chạy đi mất hút mà chẳng thèm đợi lấy tiền. Đứng bên ngoài phòng sinh, ba con Rớt đứng ngồi không yên. Y tá hết chạy vào rồi lại chạy ra, không ai chú ý đến sự hiện diện của ông chồng với vẻ mặt đầy lo lắng. Ông chồng gục xuống khi tiếng khóc cất lên hòa vào tiếng mưa xối trên hàng mái tôn cũ mục. Cái tin con Rớt đẻ ngược lan khắp xóm Lung, người trong ta ném vào đứa trẻ vừa thấy mặt trời những lời lẽ sâu cay.

- Con Lến ăn không nói có nên mới đẻ ngược vậy. Lúc có bầu không lo tu cái miệng, bô lô bô la chuyện làng chuyện xóm làm chi.

Đám cỏ ngoài ngã tư ngã rạp hằn lên dấu ngồi lồi lõm, gió từ những chiếc nón lá của cánh đàn bà xóm Lung mang mớ lời đi xa đến thẳng tai người. Má con Rớt nghiến răng kèo kẹo trong lúc dỗ con ngủ. Nghĩ, mớ than nguội lạnh dưới sàn chỉ cần Má con Rớt chạm vào thôi cũng bừng cháy. Ra tháng, Má nó đã đứng trong nhà chống nạnh chửi xon xỏn, để mặc cho ba nó với mớ chén đũa ngổn ngang. Má con Rớt trở thành “điển tích” trong việc dạy đàn bà có thai trong xóm. Câu nói dài ngắn khác nhau nhưng đủ làm dày thêm nỗi đau của người trong cuộc.

Năm con Rớt hết đái dầm, ba nó xiệt chuột bị điện giật chết. Hồi khiêng quan tài đi chôn, con Rớt còn nắm áo ông thầy chùa. Nhìn đứt ruột. Má nó xỉu lên xỉu xuống nên đâu có để ý đến mớ lời bị khói nhang làm bạt lại phía sau.

- Thứ đàn bà nói tiếng đàn ông, không sát chồng cũng ganh con.

Con Rớt lớn lên cùng thứ lời nói mang hình móc câu sẵn sàng găm vào lòng người, tươm máu. Khác với má, nó chẳng bao giờ chửi lại với bất cứ ai ném vào nó những lời cay nghiệt. Nó nhìn tôi cười.

- Kệ, ai có sức thì nói. Mình có bụm miệng người ta lại được đâu. Chửi chi cho tốn hơi.

Chính vì không thể bụm miệng được thiên hạ nên cứ mỗi độ xế chiều người xóm Lung lại nghe tiếng chửi thề lốc cốc. Má con Rớt cũng bỏ cuộc sau năm lần bảy lượt biểu nó ra chửi tiếp hay lấy chổi chà đơm lên đầu mấy bà nhiều chuyện, chu mỏ vào chửi đổng. Những lúc ấy nó chỉ nhìn về phía xa xa, miệng nói bâng quơ: “Hơi sức đâu mà Má để ý đến chuyện người ta nói gì”.

Con Rớt vẫn thường tạt qua nhà tôi, ngồi nói chuyện năm sông bảy núi. Những câu chuyện rời rạc, chắp vá vào nhau. Đoạn vừa kể xong, thế nào nó cũng buông một câu gọn ơ.

- Mấy bà đó nói chuyện “ba tô chắc còn vô được một muỗng”.

Tự dưng tôi thấy tuổi thơ của con Rớt bị sứt mẻ đi mấy phần. Chiều nào nó cũng loay hoay bên cái cầu sàn lãn ngó đám bạn tắm sông, thả diều. Con Rớt từ chối mọi cuộc rủ rê của đám bạn, vì một chiều buồn buồn Má thằng Đất lôi nó ra “vợt” vài cây khi bắt gặp nó chơi với con Rớt. Thành ra, con Rớt cứ đứng từ xa nhìn đám bạn hồn nhiên như sông nước ngoài kia.

* * *

Không biết từ đâu mà người ta tin vào việc cái đứa đẻ ngược có thể vuốt xương bị mắc ở cổ xuống một cách ngon lành. Dù bị coi rẻ nhưng hễ trong xóm có ai bị mắc xương đều tìm ngay đến con Rớt nhờ nó vuốt giùm. Con Rớt mặt vẫn dửng dưng.

- Hết chuyện tin vào mấy thứ tào lao.

Đám trẻ ăn uống vội vàng mắc xương thường nuốt trọng nắm cơm nguội rồi đến nhờ “bà thầy” vuốt cho xuống. Cái xương cá mắc ở cổ còn rơi xuống sau những lần đè nén, vậy mà cái gai trong lòng người sao đè hoài không chịu xuống. Con Rớt bị thím Tư chửi không biết tàu ghe nào chở cho hết, khi một bữa thằng Tèo bị mắc xương, con Rớt vuốt cho, về đến nhà, cổ nó bị trầy một đường dài rướm máu. Thím Tư nói con Rớt thù hằn cá nhân nên mới hại con thím. Hỏi ra mới biết, thằng Tèo chui vô bụi lùm hái bình bát bị cây quẹt vào. Thím Tư cười:

- Về nó có nói đâu?

Con Rớt tuổi con cọp, ẩn tuổi với Má nó. Nghĩ, nó mà có tính cọp chắc nó đã vồ vào thím Tư cho ra lẽ như tính của Má nó. Nhưng chắc nó cốt con mèo nên nó chỉ nhìn về phía xa xăm.

- Vài bữa đừng có mượn vuốt xương giùm là được.

Ở xóm Lung con gái tuổi cọp thường khó có chồng. Mấy lần tôi hỏi con Rớt có sợ tuổi cọp không? Nó ngó bầy chuồn chuồn chấp chới:

- Thằng Đất đẻ bọc điều đó. Nó cũng ăn cơm với muối muốn sặc máu, ba nó nhậu xỉn vô cũng đánh Má con nó lên bờ xuống ruộng. Sướng đâu không thấy.

Buổi chiều mưa lất phất, con Rớt ngó ra sông. Lâu rồi không thấy người đàn ông mót nhau trâu lại bến, cũng không thấy ông tạt qua nhà mua gói thuốc với chút ngượng ngùng. Con Rớt thở dài, chắc ổng nghe Má nó tuổi dần, số sát chồng nên chạy mất… ghe. Má nó cũng thẫn thờ nhìn ra sân tìm một bóng dáng ngại ngần. Mái nhà được vá víu bằng đủ thứ hình thù cũng mục rữa theo thời gian, tối ngủ trong mùng nước mưa dột ướt cả tấm lưng. Sáng con Rớt leo lên lợp lại nóc nhà, Má nó còn đứng trước sân chống nạnh chửi với theo mấy bà vừa đi qua bỏ lại mớ lời khó nghe. Mái nhà rách thì lợp lại còn lòng người một khi đã rách thì khó mà lành lại, chắp vá thứ gì cũng thấy thênh thang.

Đoạn đường về nhà nội con Rớt bị mấy bụi cây mọc um tùm che mắt. Lâu lâu đi lại thấy một sự đổi thay đến bất ngờ. Mà lòng bà nội con Rớt đâu có bớt đi nỗi đau mất con. Hôm đám cưới, bà Mười còn xắn quần lên rượt theo cản đứa con trai ngỗ nghịch. Bà sẵn sàng bỏ của để ngăn đứa con trai thoát khỏi tai ương với con vợ tuổi Dần. Đi coi chín thầy thì có tới mười thầy nói tuổi kỵ nhau, nửa chừng bị gãy gánh. Mà thằng con trai cứ cứng đầu không chịu nghe lời. Bữa bà ôm xác đứa con trai khóc ngất, ánh mắt đăm đăm nhìn về phía con dâu tuổi Dần, ẵm đứa cháu tuổi Dần. Kỵ cỡ đó sao con bà không chết cho được?

Con Rớt về nội trong sự ghẻ lạnh đến tê người. Sự tồn tại của nó còn thua con mèo mun mà bà nội nó thường ẵm trên tay. Má nó thề không về, từ bữa hạ huyệt bà nội cầm di ảnh chỉ thằng vào mặt Má nó.

- Tại mày mà con tao mới chết.

Câu nói đó dường như rớt lại xuống đất, mọc rễ cắm sâu vào đất. Lâu lâu nó lại tỏa ra một mùi hương đủ làm tan nát lòng nhau. Mỗi lần đi về nhà nội xong, con Rớt đều tạt qua nhà tôi thở dài thậm thượt. Mấy lần định hỏi nó, sao biết vậy còn về nhưng thôi…

Sau một hồi lặng thinh, con Rớt đưa bàn tay lên nhìn miệng thều thào.

- Nữa không biết số em có phải đi xin ăn như người ta nói không?

- Ủa, sao em nói tin chi mấy chuyện tào lao đó mà?

Con Rớt bỏ về nhà, tiếng gió vẫn âm âm sau bờ lá.

- Bà nội em đi coi thầy rồi.

Ngọn gió giật mình thổi xiết, mang theo chút hương đồng ngai ngái. Dáng con Rớt đã khuất sau rặng bần già xơ xác. Bàn tay lành lặn cầm nắm cái gì cũng chặt, chỉ có những tiếng người làm nó mềm nhũn ra. Hôm thím Lến đẻ lọt cái tay nó dưới đò dọc, người ta ngồi chống cằm, số con nhỏ này nữa đi xin ăn, nghèo chết. Con Rớt thường bỏ ngoài tai mình tất cả những gì người xóm Lung nói xấu về nó. Nhưng lần này, bà nội nó nói chắc như đinh đóng cột. Hệt như cái lần bà cản ba nó. Con đường về nhà nội chắc ngày một xa hơn.

* * *

Bữa thím Lến vớt con Rớt với thằng Tèo dưới sông lên, thím Tư còn bận ngồi trước nhà nói chuyện “thiên đình”. Thím Lến chỉ la lên được một tiếng rồi nhào xuống sông lôi hai đứa với cái bụng óc ách nước lên bờ. Thằng Tèo nằm xụi lơ, gương mặt trắng bệch chẳng còn chút máu. Thím Lến với con Rớt ép ngực một hồi thằng Tèo mới mở mắt ra nhìn. Vừa thấy thằng Tèo nhút nhít, Má con con Rớt ôm nhau khóc mướt. Khi thím Lến đánh vào mông con Rớt, hàng xóm đã bu quanh hai bên bờ sông. Nước mắt đâu có tan đi lúc thím đưa roi lên đánh.

- Mày có bề gì tao biết sống với ai đây?

Con Rớt nép vào lòng thím Lến. Dù lằn roi kia vẫn còn hằn trên thịt da nó. Người xóm Lung lại xì xầm chuyện “bà Thủy” bắt con nít đi. Đoạn sông cạn èo mà lâu lâu lại có đứa chết đuối, cúng kiến không biết bao nhiêu mà trẻ con xóm Lung vẫn bị. Má thằng Tèo vừa mở miệng cười đã kịp méo đi khi thấy thằng con nằm xụi lơ trong vòng tay của bà con xóm Lung. Má con Rớt dẫn nó về nhà bỏ lại phía sau những gương mặt người nhếch nhác với tiếng xì xầm như nối dài nhau bất tận.

Cả xóm chưng hửng, khi thấy trái banh trôi lơ lửng dưới sông. Lúc đi ngang cầu, thằng Tèo để trái banh rớt xuống nước. Nó lấy cây vói ra vớt trái banh, làm cả người nó ngã nhào xuống nước. Chẳng chút nghĩ ngợi, con Rớt nhảy xuống sông vớt nó. Hai đứa cọ quậy, vùng vẫy một hồi mà chẳng thấy bờ. Thằng Tèo cứ ghì chặt con Rớt không buông, đến lúc Má con Rớt nhào xuống lôi hai đứa vào bờ thì đứa nào đứa nấy đã uống nước no nê, mắt đỏ ngầu. Thím Tư thập thò một lúc mới vào được đến nhà con Rớt, thím Lến làm mặt lạ như không hề thấy sự tồn tại của thím Tư. Thằng Tèo chìa tay đưa bụi bông súng về phía con Rớt, để mặc cho Má nó ngọng nghịu bên hàng ba.

- Bông súng non ngon lắm. Chấm mắm kho, ngon hết sẩy.

Thằng Tèo nắm tay con Rớt chạy về phía cánh đồng nghi ngút khói. Dáng hai đứa trẻ khuất dần theo ngọn khói đốt đồng mờ nhạt, chỉ có tiếng cười còn ở lại dội vào lòng người khôn nguôi. Chiều đó, Má con Rớt và thím Tư ngồi lại với nhau rất lâu. Những tiếng sụt sùi xuyên qua vòm lá, đi qua từng nóc nhà của xóm Lung. Hai người đàn bà tựa vào nhau, hoàng hôn đổ dài cả mặt sông. Bữa đó, con Rớt về nhà muộn lắm. Mấy cái bóng đèn xanh, đỏ, tím, vàng trước quán cà phê cứ làm cho người đi đường hoa mắt. Phía trong nhà, có một dáng người đàn ông rất quen. Người đàn ông sẵn sàng bán chiếc ghe leo lên bờ bưng cà phê, bỏ ngoài tai sự đầm đìa nghi kỵ. Nghe đâu, người đàn ông ấy cũng tuổi Dần…

---------------------------------------------------------------------------------------

(*) Nhau trâu: thường bám vào cây, tàu ghe dưới sông, thường được lấy về làm mồi cho cua.

 NHÀ THỜ KA ĐƠN

Huy Chung


 CHÙM THƠ CỦA SR. TÊRÊSA TRẦN THỊ HOA 

Dòng OP. Lạng Sơn

(1936 – 2003)


Tháng hoa 95

 

Tháng hoa kính Mẹ về rồi
Con dâng lên Mẹ Chúa Trời ngàn hoa
Núi rừng xứ Lạng bao la
Khắp nơi đây đó bao là hoa tươi.
 
Lung linh dưới ánh mặt trời
Khoe hương khoe sắc tuyệt vời, đẹp chưa
Hoa rừng nở rộ bốn mùa
Con xin hái hết để đưa chúng về.
 
Suốt đời con những mải mê
Hoa thơm cỏ lạ bốn mùa ngổn ngang
Mẹ ơi dẫn lối chỉ đàng
Để con biết hái nhẹ nhàng từng bông.
 
Xin dâng lên Mẹ đóa hồng
Hòa chung hoa núi thắm nồng nhiều gai
Xin dâng Mẹ nữa, hoa nhài
Thơm thơm trắng mượt sương mai phủ đầy.
 
Con vừa đi hái về đây
Hoa sim tim tím nở đầy rừng hoang
Mẹ ơi, này cánh mai vàng
Lung linh trước gió, mênh mang núi đồi.
 
Lạng Sơn quí nhất hoa Hồi
Vào mùa Hồi nở, dân thôi tủi sầu
Từng đàn bướm nhỏ về đâu
Mà nhỡn nhơ mãi, nối đầu bay cao.
 
Thì ra lượn tới vườn đào
Hồng hồng nở rộ đụng vào mùa xuân
Con xin trọn vẹn một lần
Dâng lên Mẹ hết số phn long đong.
 
Xin dâng Mẹ đóa hoa lòng
Của đoàn con Mẹ, khắp trong núi rừng.

 

Bến vắng


Hừng đông đỏ thắm chân trời
Bến đò vắng lặng thưa người qua sông
Cánh đồng lúa chín mênh mông
Chim cò giẫm nát những bông lúa vàng.
 
Ơi, cô trinh nữ nhẹ nhàng
Tay ôm bó lúa tựa nàng lọ lem
Dần dà tôi đến làm quen
Hỏi ra mới biết cô em tên là.
 
Chúng mình cùng mẹ cùng cha
Đa Minh xứ Lạng chính là tên em
Nhẩn nha tay hái tay liềm
Đưa tay nhẹ cắt thợ quen nào bằng.
 
Đôi chân thoăn thoắt băng băng
Khắp cả đồng bằng ruộng lúa của Cha
Thương thay chân ngọc gót ngà
Của nhà truyền giáo sao mà phong sương.
 
Từng chân rảo khắp nẻo đường
Nhặt cho bằng hết vãi vương ngoài đồng
Lạnh lùng đưa gió vào đông
Cô gom lúa mới vào trong kho trời.
 
Lạy Ngài kho vẫn còn vơi
Con loay hoay mãi tối trời chưa xong
Xin Ngài sai thợ thêm đông
Giờ này vắng lặng bến sông thưa người.