- By Quang X Nguyen
- On 16:04
- No Comment
- By Quang X Nguyen
- On 03:38
- No Comment
BA TÔI VÀ NHỮNG TỜ BÁO CŨ
Huỳnh Thị Mộng Tuyền
(Kiên Giang)
Ba tôi là nông dân chính gốc, quanh năm úp mặt vào
ruộng đồng cây cỏ. Vậy mà trong nhà luôn có một kệ sách nho nhỏ. Bạn bè trong
xóm vẫn cười ba, dốt mà bày đặt “làm màu”! Những lúc ấy ba tôi chỉ cười. Ba
luôn tập cho anh em tôi thói quen đọc sách. Thay vì ham đùa nghịch ban trưa, ba
thường đặt vào tay anh em tôi những cuốn sách chi chít chữ nghĩa. Đời ba tôi
không có cơ hội được học nhiều, nên ba luôn muốn anh em tôi học hành tới nơi tới
chốn.
Sau những lần từ chối sách vì đám bạn cứ thập thò
trước nhà với mấy cái trò rượt đuổi nhau rối rít, cuối cùng tôi cũng từ bỏ hy vọng
đi theo vì sự nghiêm khắc của ba. Và không biết từ lúc nào, những trang sách cứ
mê hoặc anh em chúng tôi. Anh Hai bắt đầu được điểm tốt môn văn, con bé út viết
chữ không sai lỗi chính tả. Tôi thì bắt đầu viết những dòng chữ nguệch ngoạc
trên giấy, để những dòng chữ đó ngay hàng thẳng lối ở góc nhỏ trên tờ báo. Ba
tôi mừng rỡ đem khoe khắp xóm. Tờ báo được ba nâng niu như báu vật. Rồi sau việc
đồng áng vất vả, ba cũng bắt đầu viết. Ba thường mừng rỡ, réo gọi con cái trong
nhà mỗi khi ba viết được một bài thơ mới. Ba ngâm nga cho cả nhà nghe lúc rảnh
rỗi. Má tôi cũng chỉ biết cười, nhưng thấy ba vất vả nên má thường không tỏ vẻ
khó chịu. Tôi bắt đầu gửi những bài thơ vụng về của ba cho tòa soạn báo. Chờ đợi
là cảm giác khiến cho con người ta nguôi bớt đi hy vọng. Nhưng ba vẫn đọc sách
và viết. Anh em chúng tôi thường ngồi cùng ba bàn luận về một quyển sách hay
mình vừa đọc, về một nhân vật nào đó có kết cục bi thương. Những cuốn sách cứ
chuyền tay nhau nối dài tình thương yêu trong gia đình chúng tôi.
Tôi vẫn còn nhớ như in lúc ba nhận được tờ báo có
bài thơ của mình. Ba nhảy cẫng lên như một đứa trẻ, vội chạy vào khoe với má.
Chiều đó gian bếp của má lại có thêm những tiếng cười. Ba nhướng mắt lên nhìn về
phía má: “Cho bà hết khinh dễ tôi”. Khác với suy nghĩ của anh em tôi, ba đem tờ
báo đi khoe dài dài trong xóm, khoe với những người từng bảo ba thơ thẩn lung
tung. Ba xếp nó gọn gàng bên góc tủ, lâu lâu ba lại giở ra đọc từ trang đầu đến
trang cuối. Con bé út thắc mắc với ba: “Sao ba không cho mọi người trong xóm biết
ba là nhà thơ, có thơ đăng báo?”. Ba chỉ nhìn con bé út cười: “Ba là nông dân,
đọc sách làm thơ chủ yếu để các con nhìn vào mà học theo, chứ có phải là nhà
thơ gì đâu”. Tôi đứng lặng bên hiên nhà, chiều chầm chậm trôi trên những mái đầu…
Từ thói quen của “người đàn ông ít chữ” ấy, anh em
chúng tôi đều được học hành tới nơi tới chốn. Dù rằng chúng tôi chẳng phải là
ông này bà nọ, vi vu trời Tây trời Âu, nhưng cũng đỡ nhọc nhằn hơn so với ba
má. Giờ đây, ba cũng không còn viết nhiều như xưa. Tôi cũng bận bịu với công việc
thường ngày, lâu lâu vẫn viết đôi dòng gởi báo. Và ba vẫn cẩn thận gìn giữ những
tờ báo ấy như một thứ tài sản lớn lao. Và sau ngần ấy năm, cả gia đình tôi vẫn
giữ cho mình thói quen đọc sách. Mỗi trang sách giúp anh em chúng tôi nhận ra
nhiều thứ, biết sống bao dung hơn, biết giúp đỡ mọi người xung quanh mình… để từ
nhỏ cho đến lớn, ba má chẳng phải phiền lòng vì anh em chúng tôi. Sống để vừa
lòng tất cả mọi người là một việc rất khó. Nhưng sống để người khác tôn trọng
là việc mà ba má luôn mong muốn các con mình làm.
Một ngày trở về với căn nhà xưa, những thứ cũ càng
như vẫn còn nằm lại nơi đây. Góc sách nhỏ của ba được cơi nới ra thêm. Có đủ
các thể loại sách mà ngày xưa ba tiếc tiền chẳng dám mua. Và ở góc nhỏ trang trọng,
ba vẫn dành cho những tờ báo cũ thân thương…
- By Quang X Nguyen
- On 06:58
- No Comment
- By Quang X Nguyen
- On 03:34
- No Comment
TÌM ĐẾN MỘT PHẬN NGƯỜI
Anê Xuân Trần
(An Mỹ-
GP. Qui Nhơn)
Tôi đến nhà chị vào một buổi chiều nắng còn gay gắt,
đường đi xa xôi ngoằn ngoèo và đầy đất đá. Vừa đi tôi phải vừa hỏi thăm đường,
vì chỗ tôi ở cách xa chỗ chị khoảng vài chục cây số lại chưa quen biết, nhưng rồi
mọi chuyện cũng đã rất tốt đẹp.
Nhìn từ xa, đó là một căn phòng nhỏ bằng gạch không
tô phết, rộng chừng bốn mét vuông, nằm ở cuối khu vườn lẻ loi cô độc. Xung
quanh và trước mặt chất chồng nào là gạch, đá, cây củi... Tôi bước đến cửa,
nhìn vào bên trong, một phút chạnh lòng! Căn phòng chật chội nóng nực như một
cái kho chứa đồ đạc. Chị nằm đó, trên chiếc giường tre, lọt thỏm giữa bộn bề
chăn màn thùng hộp, mì tôm, nước uống, chai lọ... Tất cả đều chất lên trên một
chiếc giường! Phải một lúc lâu tôi mới bình tĩnh lại, lên tiếng:
- Em chào chị. Chúng em đến thăm chị đây.
Nghe có tiếng người, chị lồm cồm ngồi dậy, tay sờ soạng
tìm chiếc nón lá cũ rách đội lên đầu (chắc là che cho bớt nóng vì mái tôn quá
thấp).
- Ai? Ai đó?
- Dạ, em ở nhà thờ An Mỹ.
- À, có đạo hả? Cô vào chơi!
Tôi đi thẳng vào trong, loay hoay tìm vật gì để ngồi
nhưng không thấy đành ra ngoài lấy viên gạch dùng tạm. Đối diện với chị tôi mới
thấy đây thực sự là một hoàn cảnh đáng thương: Mắt thì mù, tai không còn nghe
rõ, đôi chân sưng húp không đi lại được. Cả ngày hết nằm lại ngồi, cô đơn chiếc
bóng... Tôi nhìn một lượt khắp căn phòng mà lòng nặng trĩu suy tư: Đây là cuộc
sống của một con người sao? Sống mà chẳng nhìn thấy, chẳng biết gì về thế giới
bên ngoài, năm này qua năm khác, tháng nọ nối tiếp tháng kia, ngày nắng ngày
mưa, tết đến xuân về vẫn một cảnh sống, ngồi đó và chờ đợi...
Tôi nghĩ mình phải làm một cái gì đó, ngay lúc này.
Thế là bắt tay vào việc, vừa dọn dẹp vừa trò chuyện. Mà tôi lại nói giọng Huế,
nhiều lúc nghe không lọt tai, chị cười trêu: “Cái cô này nói sao đâu, tôi chẳng
hiểu gì cả!”. Tôi lại phải nói rất chậm, giả lai lai tiếng Bình Định làm chị
khoái trá. Tôi hỏi: “Sao chị bị mù thế?”… “Chân chị làm sao mà sưng húp thế
kia?”… Vân vân... Những câu hỏi dồn dập thế mà chị trả lời vanh vách, đôi lúc
nghe xúc động, đầy thương cảm. Tôi nói: “Bây giờ chị kể cho em nghe về cuộc đời
của chị trước đây đi!”
Như được mở cờ trong bụng, chị huyên thuyên nói cười,
thao thao bất tuyệt như sợ bị tôi cắt ngang. Chị bảo lúc còn trẻ chị cũng được
gái lắm, cũng có nhiều người mai mối nhưng chị không thích. Chị mong ước đi tu
nhưng rồi không thành. Gia đình chị sau đó liên tiếp xảy ra nhiều tai ương, cha
mẹ lần lượt qua đời, chị một mình làm thuê làm mướn. Cho đến một ngày đôi mắt bỗng
mờ đi và dần dần trở nên mù lòa. Từ đó chị suy sụp, may mà có đứa cháu gái
thương tình giúp đỡ... Nghe chị kể mà tôi cứ nghẹn ở cổ.
Một lúc lâu thì công việc cũng hoàn thành, tôi đến
bên chị vỗ vai an ủi:
- Cầu Chúa ban sức mạnh cho chị. Chị siêng năng đọc
kinh lần hạt hằng ngày, Ơn Trên sẽ
nâng đỡ chị. Chị cố gắng lên nhé!
Tôi cầm đôi tay gân guốc khô sạm của chị, định nói
vài lời từ giã. Nhưng chợt nhìn thấy những ngón tay quá bẩn, móng dài lởm chởm
của chị, thế là phải lấy nước ngâm tay cho chị và bắt đầu làm công việc của một
thợ nail! Tôi hỏi: “Bây giờ chị ước
ao điều gì nhất?”
- Giá mà chân không đau, tôi sẽ đến nhà thờ để được
cùng mọi người hát kinh, nghe Cha giảng thì sung sướng biết bao! Nhưng… đã
không còn hy vọng nữa rồi…
- Can đảm lên chị nhé, phần thưởng sau này Chúa sẽ
dành cho chị… Chị đọc kinh và cầu nguyện cho chúng em, ngoài xã hội nhiều cám dỗ
lắm!
Chị dò dẫm nắm lấy tay tôi: "Lần sau cô có đến
nữa không?" - Tôi chần chừ nhưng rồi cũng buột miệng, quả quyết: “Chúa Nhật
tới em sẽ đến”.
Chia tay chị trở về, lòng tôi dâng lên bao niềm
thương cảm. Lần sau đến, tôi sẽ ngồi nghe chị nói, lắng nghe nỗi lòng và tâm sự
của chị, nghe chị khoe về dĩ vãng tươi sáng… Đó là những kỷ niệm đẹp mà chị khó
có dịp để thổ lộ cùng ai.
* * *
Như lời đã hứa, Chúa Nhật này tôi lại đến thăm chị.
Cả một tuần, hình ảnh người chị già neo đơn bệnh tật lúc nào cũng hiện diện
trong tâm trí tôi. Tôi là một người lính của Mẹ, là tông đồ của Chúa. Mục đích
của người hội viên Legio là tiến bước theo chân Mẹ, đem Chúa đến với những người
bệnh tật khổ đau, an ủi những người khó khăn sầu não... Tôi nhớ đến chị không
những vì chị mà vì lời Chúa nhắc nhở bên tai: "Ai làm cho một kẻ bé mọn vì Ta là làm cho Ta". Vì thế, đến
với chị là đến với Giêsu, một Giêsu mù lòa đang chờ đợi để nghe một tiếng gọi
tiếng chào phát ra từ cánh cửa, một Giêsu đang bị nhức nhối vì đôi chân sưng
húp, một Giêsu cô đơn âm thầm lặng lẽ mong tìm kiếm bóng hình ai…
Nhờ chị mà tôi biết nhìn lên để thấy mình thật hạnh
phúc, để thấy Chúa ưu ái mình biết chừng nào! Tôi đang có trái tim khỏe mạnh,
trí khôn thông hiểu, có đủ mọi giác quan để trải nghiệm, có cuộc sống ấm no.
Nhìn lên để hằng ngày cảm tạ muôn vàn hồng ân Chúa ban, để không còn than van
trách móc...
Nhờ đến với chị mà tôi đã biết nhìn xuống để mở rộng
tấm lòng, quan tâm sẻ chia với những ai nghèo đói, bệnh tật. Để tôi biết sống
chan hòa với mọi người hơn, biết chú ý lắng nghe và đồng hành với khó khăn của
người chung quanh.
Lạy
Mẹ! Xin hãy cùng đi với con và giúp con thực hiện những gì Chúa mong muốn.
- By Quang X Nguyen
- On 03:31
- No Comment
NGÀY CŨ BÌNH YÊN
Cao Thị Thơm
(Hà Nội)
Ấy là khi tôi được hòa mình vào một phiên chợ ở quê,
sáng sớm lóc cóc xách làn cho mẹ đi tới đi lui từ hàng cá cho đến hàng rau. Những
khuôn mặt quen thuộc, những chỗ ngồi quen thuộc và giọng nói dân quê đầy sự mộc
mạc chân phương. Nụ cười của cô bán rau tập tàng ngồi ở góc chợ rất tươi mỗi
khi thấy hai mẹ con tôi ghé qua, mặc dù đôi lúc mẹ cũng không mua rau vì ở nhà
rau hẵng còn nhiều. Thật lạ, hình ảnh của cô khiến tôi thấy cả một sự bình yên
trải dài, mà ở đó (khu chợ này) chỉ toàn là người hiền, lương thiện. “Ở chợ quê mình ấy mà, toàn là người hiền
thôi”, mẹ nhẹ nhàng đáp lại lời của tôi, khi tôi cảm nhận một chút về cô
bán rau tập tàng. Và cả ánh mắt của cô bé nhỏ thó ngồi nép bên người mẹ đang
bán rau ánh lên sự trong veo, mang theo cả một bầu trời đầy hồn nhiên và nhiều
ước vọng.
Ấy là khi tôi được ngủ dậy đón ngày mới ở quê nhà.
Ban mai ở quê trong lành quá đỗi! Tiếng gà gáy tao tác cất lên từ chỏm cao nhất
của đống rơm, vang rền giòn giã. Từ chái bếp, hương thơm mùi xôi mẹ đồ, ngọn
khói lởn vởn trắng ngà từ kẽ ngói khẽ bay lên hăng hắc, hòa quyện vào nhau. Mấy
chú khướu không rõ từ nơi đâu, cũng về líu lo trên cành bạch đàn sau hồi nhà,
như đang hân hoan chào đón ngày mới. Nắng buổi sáng vàng chanh, xiên xéo qua
chái bếp, từng vệt sáng dài lấp lánh, rọi qua khuôn mặt của mẹ rồi chiếu tới
chú mèo tam thể đang lười biếng cuộn tròn trên nền nhà. Ánh nắng soi vào vết
chân chim, nếp nhăn trên khuôn mặt mẹ chằng chịt, như đang hong khô dấu thời
gian khắc nghiệt. Còn chú mèo tam thể thấy nắng cứ ưỡn ẹo, mắt nheo lên nhìn nắng,
đôi râu rung nhè nhẹ tận hưởng ngày nắng ấm. Đám con trẻ quây quần bên mẹ, chờ
mẹ lấy đôi đũa cả xới từng nắm xôi cho vào lá chuối tươi đã được rửa sạch bóng
lưỡng. Thêm một chút muối vừng mẹ rắc nữa là trọn vị bữa sáng yêu thương. Tôi
vo tròn nắm xôi trong tấm lá chuối, hơi nóng làm ấm đôi bàn tay, hương thơm
tràn lên mũi, và nghĩ về những hạt nếp dẻo thơm, những hạt vừng bùi bùi béo ngậy.
Bình yên gói lại trong mọi suy nghĩ, trong một ngày mới tốt lành.
Ấy là khi tôi thấy mình bé lại như những ngày thơ ấu.
Những ngày thơ ấu ở quê, nhiều hoài niệm bình yên trở lại. Tuổi thơ trong vắt với
cánh diều tự chế, những chú ve mùa hạ trong hộp diêm kêu rè rè, những lần bì
bõm dưới dòng sông quê mát rượi, những trận bóng nảy lửa bên sân bóng làng với
trái bóng kết bằng rơm khô, vải vụn. Tôi cười, bạn bè tôi cười khanh khách, chạy
nhảy hết cả mùa hạ bỏng rát, quần áo ướt sũng mồ hôi. Những cái ôm đầu tiên của
lũ bạn, những nụ cười của tuổi thơ đã trở thành ký ức, và dòng thời gian bất tận
đã đưa tôi đến thế giới của những người trưởng thành, tới một nơi xa xôi với
nhiều lo toan suy nghĩ. Cuộc sống những ngày ở phố, đôi khi tâm trí tôi bị trống
rỗng, bó buộc, và luôn cố gắng hòa mình để khỏi chống chếnh, chênh vênh. Và bằng
một cách nào đó lạ lùng, khi tôi mất dần cảm xúc, tôi lại hồi tưởng về những
ngày ấu thơ yên bình, neo lại nẻo yêu thương.
Ấy là một buổi chiều của ngày xưa xa lắc, tôi ngồi
trong lớp học với đám bạn. Mùa hạ của những năm cuối cấp. Phượng hồng và bằng
lăng rực rỡ. Dưới vòm trời mùa hạ, đám con gái cười dịu dàng kể lại những chuyện
đã qua, những trò nghịch ngợm mà đến phút cuối mới bật mí. Tất cả xóa nhòa giận
hờn để ngồi lại bên nhau, vòng tay ôm bờ vai tuổi mười tám rưng rưng, khẽ chuyền
tay nhau quyển lưu bút đầy ắp dòng mực tím. Tuổi mười tám xanh ngời. Tuổi học
trò đầy ước vọng. Mãi mãi về sau, những ngày cũ tuổi học trò sẽ là những ngày
thương nhớ ngọt ngào nhất. Mà cả tôi, bạn, những ai đã qua tuổi học trò đều muốn
quay lại một lần trong đời.
Ấy là khi một ngày tôi gột bỏ tất cả những bụi bặm của
phố phường, bỏ lại bon chen thường nhật tận hưởng cuộc sống chậm rãi ven đô. Nhấp
một ngụm cà-phê, tản bộ vỉa hè với hàng muồng hoàng yến buông thõng sắc vàng.
Bình yên gói lại trong mọi suy nghĩ. Cơn mưa rào đổ xuống, đem trả lại vị ngọt
của ngày cũ, khơi dậy bao cảm xúc tươi mới và thanh mát.
Tôi đã có những ngày cũ bình yên như thế…
- By Quang X Nguyen
- On 03:27
- No Comment
MUỐI MÀ NHẠT ĐI...
JB. Nguyễn Văn Ninh
(Tp.HCM)
Hôm nay đọc báo, bất ngờ đọc được tin anh nhảy xuống
sông cứu cô gái, chung quanh là một đám đông nhốn nháo, tự nhiên tôi rùng mình.
Không phải vì quá lo lắng cho anh hay cô gái, dù sao thì mọi chuyện đã thành
công, anh cứu được cô gái. Điều khiến tôi rùng mình bởi một ý nghĩ chợt đến, nếu
ở vào trường hợp của anh, liệu tôi có nhảy xuống không?
Ngày bé hay đi tắm sông, cũng hay nhảy từ trên cao
xuống. Tuy vậy, đó phải là khúc sông an toàn, không có cọc chông lồi lõm. Tôi
rùng mình khi nghĩ rằng lúc nhảy xuống cứu cô gái đó, sẽ có những tảng đá, những
cọc nhọn, những gốc cây lô nhô… Thật khủng khiếp với những thứ tôi mường tượng
ra!
Tôi tưởng tượng ra đủ thứ rủi ro rình rập mình nếu
nhảy xuống cứu cô gái. Thật bi hài! Nếu là thực tế thì có lẽ cô gái đã bị người đưa đò Charon trong thần thoại Hy
lạp đem đi trước khi tôi suy nghĩ xong. Nói dông dài mãi có lẽ cũng phải đi đến
một kết luận cuối cùng: Trong trường hợp là chàng trai, tôi không chắc mình sẽ
dám nhảy xuống để cứu cô gái. Chỉ mong sao lúc đó tôi sẽ hành động theo một bản
năng tiềm ẩn sót lại đâu đó. Mong thay!
Tự hỏi nếu không dám nhảy xuống cứu cô gái, mà tôi
là một phần tử trong cái đám đông đứng nhìn và la hét khi chứng kiến một cô gái
giãy dụa chờ chết, đâu là điều khác biệt giữa chúng tôi và chàng trai? Sẽ có rất
nhiều đáp án ngoài chuyện biết bơi hay không. Vì chàng trai kia can đảm, chàng
trai kia yêu người, có lòng trắc ẩn. Và chúng tôi, ngược lại, là những kẻ nhát
đảm, không yêu người đủ... Điều đó hoàn toàn có cơ sở. Điều đó có thể đúng,
nhưng không hiểu sao tôi bỗng bồi hồi. Có lẽ có một lý do khác nữa, một lý do
nào đó ẩn sâu trong cái bề ngoài là vô cảm, là nhát đảm, là tính toán đó.
Trong tác phẩm “Giết
con chim nhại” của nhà văn Harper Lee, có kể về một vụ kiện giữa người da
trắng và người da đen. Quan tòa đã xử người da đen thua kiện chỉ vì anh ta
không đưa ra được bằng chứng khách quan chứng minh mình vô tội. Ai cũng thấy
rành rành đó là một bản án bất công. Khi quan tòa tuyên án anh chàng da đen có
tội, có một số cô cậu bé đến xem vụ xét xử đã bật khóc nức nở.
Dill là một cậu bé tinh nghịch, lì lợm, dám bỏ nhà
đi bụi đời vì ba mẹ không quan tâm đến cậu. Còn Jem luôn cố gắng trở nên một
quý ông bản lĩnh như bố mình. Cậu mong muốn sẽ làm một luật sư tốt như bố vậy,
và cậu luôn chứng tỏ cho em gái cậu thấy điều đó. Đứng trước sự bất công đó,
hai cậu bé luôn tỏ ra mạnh mẽ cuối cùng đã phải bật khóc.
Xã hội miền Nam nước Mỹ những năm 1930 vẫn còn phân
biệt chủng tộc. Một người da trắng kiện một người da đen, nếu người da đen
không có bằng chứng rõ ràng để biện hộ thì anh ta thua kiện là điều hết sức
bình thường. Cả một xã hội vận hành theo ý thức hệ đó. Có những người thấy rõ
là bất công nhưng họ không đấu tranh, họ chấp nhận một cuộc sống như nó vốn là.
Hòa theo nó. Chảy theo nó. Lâu dần không còn sức phản kháng nữa. Họ như những
thứ lềnh bềnh trôi trên một dòng sông. Nhẹ nhàng. Lơ đãng. Vô tư lự. Hời hợt. Mặc
dòng đời cuốn đi đâu thì đi, miễn sao họ vẫn trôi chứ không bị chìm. Phải, chỉ
vậy thôi, chỉ cần họ không bị tổn hại, chỉ cần họ an toàn. Cuộc sống như thế
nào họ không quan tâm. Thế nên họ không khóc.
Tôi hay đa phần đám đông xôn xao trên cầu cũng vậy.
Không phải là họ không còn xúc động nhưng bản năng hành động của một con tim có
thể đã bị tê liệt từ lâu. Bởi một lối sống tìm kiếm sự an toàn, luôn “phòng ngự”.
Một lối sống an nhàn, hời hợt, không thao thức, khắc khoải với những giá trị đẹp
của cuộc đời. Có lẽ câu nói của Elie
Wiesel ứng với đa phần đám đông trong trường hợp này: “Trái ngược với yêu không hẳn là ghét mà là sự hời hợt”.
Chàng trai là một người tốt. Chính anh đã chia sẻ
trên báo Tuổi trẻ rằng: “Cứu sống được mạng sống con người là tôi vui rồi”. Những
kinh nghiệm sống đầy nhiệt huyết mỗi ngày đã giúp anh hành động mà chẳng chần
chừ tính toán thiệt hơn. Một trái tim luôn đập với những khắc khoải, được nuôi
dưỡng bởi niềm say mê, nhiệt huyết với cuộc đời, hẳn đã giúp cho chàng thanh
niên kia dễ dàng quyết định nhảy xuống dòng sông cứu cô gái hơn.
Nói về những thao thức khắc khoải với cuộc đời, hình
như đao to búa lớn quá. Nhưng gượm đã… Khắc khoải đó cũng chính là tấm lòng của
một người mẹ ngày ngày đi bán vé số cho con ăn học, chỉ mong sao nó thoát được
cái nghèo đeo bám. Đó cũng là nỗi lòng của một người thầy tìm mọi cách để dạy dỗ
những đứa học trò sao cho thật tốt. Một cậu bé mỗi ngày cố gắng chăm chỉ học
hành để được lãnh thưởng. Một tội nhân mong sao đến ngày được tự do để làm lại
cuộc đời... Vâng, khắc khoải đó, đơn giản thôi, chỉ cần là một tâm hồn luôn thao
thức để làm những điều tốt đẹp, mang lại ý nghĩa cho ơn gọi cuộc đời mình.
Luôn khắc khoải, phải chăng là không yên, là luôn
tìm cách vươn lên mà không chấp nhận thực tại? Nói đến chuyện thao thức khắc
khoải với cuộc đời, chợt nhớ lại lời kinh cầu thánh Martinô: “Xin cho con biết bắt chước các nhân đức
ngài mà yên vui trong địa vị Chúa đã đặt”.
“Yên
vui trong địa vị Chúa đã đặt”, những người để cuộc đời mình trôi lềnh bềnh trên
dòng đời có thể bám vào đó và biện hộ cho mình. Thế nhưng, không phải vậy! Thánh
Martinô không hề là một người “yên vui” theo kiểu đó. Nếu ngài chấp nhận cái
yên vui đó, thì sao cả cuộc đời ngài lại dính vào những phiền phức rắc rối khi
giúp đỡ những người nghèo, và ngay cả thú vật? Hết lần này lượt nọ, cha bề trên
đã can ngăn ngài đón những người nghèo vào tu viện, vì gây ra sự lộn xộn, nhếch
nhác trước những vị khách sang trọng, quý phái đến thăm tu viện. Thánh Martinô
vốn đạo đức thánh thiện nhưng lại chấp nhận để người khác la rầy vì cho rằng
ngài làm phiền, gây lộn xộn cộng đoàn. Một cách tự nhiên, điều đó thật khó chịu.
Ngài đã vâng lời bề trên, nhưng bằng mọi cách ngài vẫn cứ mang lấy những rắc rối
khi cứ lo cứu giúp những người nghèo. Ngài yên vui trong ơn gọi làm một tu sĩ sống
khó nghèo, khiêm nhường, nhỏ bé. Nhưng ngài cũng không hề “yên vui” tí nào khi
say mê ý nghĩa cuộc đời mình trong ơn gọi nâng đỡ những người khốn cùng.
- By Quang X Nguyen
- On 06:27
- No Comment
- By Quang X Nguyen
- On 03:23
- No Comment
CÔ ĐƠN TRONG TỰ DO
Xương Rồng
(Hội
Dòng MTG Chợ Quán)
Nó ngồi lặng lẽ ở
một góc nhà nguyện, thẫn thờ suy ngẫm về đề tài mà cha vừa giảng: “Sống với nỗi cô đơn”. Mặc cho kẻ vào,
người ra, Nó cũng chẳng thèm quan tâm. Nó để hồn mình bay bổng về một nơi xa
xôi nào đó…
Sinh ra và lớn
lên trong một xóm đạo nhỏ, tuổi thơ của Nó gắn liền với nhà thờ. Tháp chuông là
điểm hẹn của Nó và đám bạn trước và sau các giờ đi học. Gia đình Nó thì khá nổi
tiếng trong xóm, ba Nó làm trưởng giáo khu, dòng họ Nó có người đi tu làm linh
mục, làm sơ rồi. Ngay từ nhỏ, Nó đã được ba mẹ ấp ủ, nuôi dưỡng cho một ước mơ
cao đẹp. Cho nên khi có ai hỏi: “Lớn lên
con sẽ làm gì?”, nó chẳng ngần ngại mà trả lời: “Con sẽ đi tu”, dù chẳng biết tu là gì! Thế rồi, thời gian dần trôi
qua, Nó đã trở thành một thiếu nữ như các bạn bè cùng trang lứa. Nó đã biết mơ
mộng, biết nhớ thương. Nó để ý đến anh, một người trong giáo xứ. Anh chỉ lớn
hơn Nó một tuổi nhưng trông rất chững chạc, hiền lành, cao lớn và còn đẹp trai
nữa. Đặc biệt, sự siêng năng của anh đã gây ấn tượng trong lòng Nó. Dù sáng sớm
hay chiều tối, trong các thánh lễ, giờ kinh, Nó luôn thấy xuất hiện hình bóng của
anh ở góc cột phía bên kia nhà thờ. Vì thế, đã nhiều lần Nó thầm liếc nhìn anh
mỗi lần chúc bình an. Đôi lúc, Nó cũng bắt gặp ánh mắt anh cũng đang nhìn Nó. Từ
lúc khám phá ra điều đó, Nó bỗng trở nên siêng năng hơn. Nó đi lễ sớm hơn, đi đọc
kinh cũng đều đặn hơn, không phải vì yêu mến Chúa hơn đâu, nhưng để được nhìn
thấy anh! Cứ thế, càng ngày tình yêu của Nó dành cho anh càng sâu đậm. Mặc dù
chưa có lần nào nói lên lời yêu, nhưng nhìn ánh mắt của anh, Nó cũng cảm nhận
được hình như anh cũng để ý đến Nó.
Thấm thoát ba
năm trôi qua, Nó chuẩn bị tốt nghiệp, đã đến lúc Nó phải quyết định lựa chọn cuộc
sống của mình. Tốt nghiệp xong, Nó sẽ thực hiện ước mơ đã được dưỡng nuôi, ấp ủ
từ nhỏ hay Nó sẽ đi theo tiếng gọi tình yêu của anh? Lòng Nó rối bời, một cuộc
chiến dữ dội diễn ra trong lòng Nó… Một hôm, sau thánh lễ chiều, Nó và anh gặp
nhau dưới tượng đài Đức Mẹ, anh ngỏ ý muốn nói chuyện riêng với Nó. Ngồi ở hàng
ghế đá dưới gốc cây si, ánh trăng hôm đó dường như sáng hơn. Nó ngồi bên anh
lòng rộn ràng hạnh phúc. Nó muốn nói với anh tất cả những rung động và thổn thức
của trái tim mình. Nó đã chuẩn bị hết những lời lẽ để diễn tả, thế nhưng, chưa
kịp để Nó mở lời, anh đã lên tiếng trước: “Em có chịu làm người yêu của anh
không?”. Tim Nó đập liên hồi, Nó bối rối và lúng túng. Điều này Nó đã mơ ước từ
lâu, thế nhưng chẳng lẽ mình lại đồng ý ngay! Nó thầm nghĩ thế liền trả lời:
“Em muốn đi tu”. Nó cứ nghĩ anh sẽ dùng những lời nói ngọt ngào để giữ chân Nó
lại. Thế nhưng, mặt anh bỗng sáng lên và tươi cười đáp lại: “Thế thì tốt, đi tu
là con đường hạnh phúc nhất, ở đời khổ lắm, em hãy đi tu đi” -“Vậy còn anh thì
sao?” - “Anh cũng sẽ tu, nhưng tu tại gia để phụng dưỡng cha mẹ và phục vụ nhà
thờ”. Bao nhiêu mộng tưởng trong đầu Nó bị dập tắt. Nó cảm thấy giận anh và
ghét anh hơn bao giờ hết. Sao anh không hiểu tâm lý của người con gái mới lớn
chứ! Nó buồn anh, Nó không muốn nói chuyện với anh nữa. Chắc là anh không
thương Nó như Nó nghĩ, hai con tim không cùng chung nhịp đập nên không thể hiểu
nhau. Tiếng ve kêu từng hồi như muốn chọc tức cơn giận của Nó. Nó bỏ ra về
trong sự ngỡ ngàng của anh. Con đường về nhà hôm nay sao mà xa quá, Nó nặng nề
lê từng bước chân trong nỗi cô đơn. Ánh trăng kia cũng trở nên mờ ảo bởi sự che
khuất của đám mây… Bước đi lặng lẽ trong đêm tối, Nó chợt nhận ra ý Chúa muốn
Nó từ bỏ mọi sự mà bước theo Ngài.
* * *
Ngày Nó ra đi thật
nhẹ nhàng, lúc trời còn mờ tối, khi những cánh chim chưa buồn thức giấc, những
giọt sương mai còn đọng trên các kẽ lá. Nó cùng nhỏ bạn lẽo đẽo theo mẹ đón xe
đò lên thành phố nhập Dòng, để lại bao kỷ niệm mến thương với một mối tình của
tuổi mới lớn ở lại. Ngày đó anh cũng không hề hay biết, và dường như hình bóng
anh cũng dần mờ nhạt trong lòng Nó. Nó bước vào đời tu, bắt đầu làm quen với đời
sống thinh lặng của tu viện, cũng như cuộc sống chung với chị em…
Một năm sau, Nó
được về quê nghỉ hè. Cũng dưới hàng ghế đá đó, Nó gặp lại anh, không gian và cảnh
vật vẫn như xưa, khuôn mặt anh với nụ cười không có gì thay đổi, tiếng ve vẫn
râm ran gọi hè. Chỉ có một mình Nó là thay đổi, giờ đây Nó đã được mọi người
trong xóm gọi là “sơ nhí” rồi. Nó gặp
lại anh với một tâm hồn trong sáng và hạnh phúc, không còn trách, không còn giận
anh nữa. Nó hí hửng kể cho anh nghe những niềm vui, sự bình an cũng như những
điều kỳ lạ trong đời tu. Anh an ủi, động viên, khích lệ Nó. Anh hứa sẽ cầu nguyện
thật nhiều cho Nó. Nó cũng hứa là sẽ cố gắng và cũng sẽ luôn nhớ đến anh trong
các giờ cầu nguyện. Nó đâu biết rằng đó là lần cuối Nó và anh gặp nhau… Một tuần
sau khi trở lại nhà dòng, trong lúc Nó đang làm việc bổn phận, trên tay còn cầm
mấy cái giẻ, con nhỏ bạn chạy tới giọng run rẩy báo tin: “Anh L qua đời rồi, trong một tai nạn giao thông”. Như một tiếng
sét bên tai, Nó lặng người, Nó không tin đây là sự thật, nhưng sao nước mắt cứ
tuôn ra. Nó muốn gọi tên anh thật lớn và chạy thật nhanh về nhà để gặp anh lần
cuối. Tim Nó nhói đau vì sự ra đi bất ngờ của anh…
Hai hàng nước mắt
Nó chảy ra từ lúc nào không biết… Bỗng tiếng ho của người chị em ngồi bên cạnh
làm Nó giật mình. Mới đó mà đã hơn mười năm rồi, nhanh thật! Bây giờ Nó đã là một
nữ tu chuẩn bị khấn trọn.Nó tiếp tục giờ cầu nguyện của mình…
* * *
Khi nói về cô
đơn, chắc hẳn ai cũng đã từng một lần trải nghiệm. Thật vậy, cô đơn là một lẽ
thường tình diễn ra trong cuộc đời con người, đặc biệt là với người tu. Sau một
ngày vất vả với công việc, với sứ vụ, tối trở về với căn phòng lặng lẽ và cô
đơn. Đã bao lần Nó muốn có một bờ vai, một cánh tay giơ ra nắm lấy cùng với Nó
bước đi trên đường đời. Những lúc gặp đau khổ, thất vọng, Nó lại nhớ đến anh,
nhớ những lời động viên, an ủi, khích lệ của anh. Những lời đó như động lực cho
Nó tiếp tục bước đi. Nhìn lên Thánh giá Chúa, Nó thấy Chúa cũng đang cô đơn
nhìn Nó. Ánh mắt Chúa như nài xin Nó hãy đến và ở lại. Chúa như một người tình
cô đơn luôn mòn mỏi, đợi chờ Nó. Nó nhớ đến một câu nói mà Nó cảm thấy rất tâm
đắc: “Không lúc nào tôi đỡ cô đơn cho bằng
lúc tôi ở một mình”. Câu nói nghe có vẻ nghịch lý, nhưng sao Nó thấy đúng
quá, rất hợp với tâm trạng của Nó. Biết bao lần Nó sống chung với các chị em,
cùng chơi đùa, cùng cười nói nhưng sao Nó vẫn thấy lạc lỏng và cô đơn quá. Chẳng
ai có thể hiều được những gì đang diễn ra trong tâm hồn Nó, bởi Nó luôn cố che
đậy bằng những nụ cười hời hợt. Ai có thể lấp đầy được nỗi cô đơn trong tâm hồn?
Nó tự đặt câu hỏi cho bản thân mình.
Sống trong cuộc
đời, mỗi người ai cũng phải tự bước đi trên chính đôi chân của mình với một con
đường riêng. Và rồi trên con đường đó làm sao tránh được những nỗi cô đơn? Có
nhiều cách để giải quyết nỗi cô đơn đó. Có người tìm cách chạy trốn bằng cách
lao mình vào thế giới ảo, những cơn nghiện, cơn say hoặc những thú vui tai hại.
Hay có người lại cố quên đi bằng cách chìm đắm trong cô đơn qua việc cắt đứt mọi
giao tiếp, đóng kín mọi “cửa ngõ tâm hồn” hay nhốt mình trong tuyệt vọng. Tất cả
những cách đó chẳng có thể làm cho con người vơi đi sự cô đơn, ngược lại càng
làm cho cuộc sống rơi vào bế tắc. Nhìn vào gương Chúa Giêsu trong vườn Cây Dầu
và trên Thánh giá, ta khám phá ra rằng chẳng ai tránh khỏi cô đơn. Cách duy nhất
là dám đối diện nó, đó là việc mở lòng ra cho tình yêu, với Thiên Chúa và với
tha nhân. Vì thế, mỗi khi cảm thấy mình cô đơn, bạn hãy nhìn lên Thánh giá Chúa
để thấy rằng: Có một Người Tình vẫn
luôn đợi chờ bạn, mọi lúc mọi nơi. Bất cứ khi nào bạn cần, cứ tới, Ngài vẫn
luôn giang rộng vòng tay ôm ấp và lấp đầy nỗi cô đơn của bạn.