BÊN GIẬU HOA BÂNG KHUÂNG

Thiện Chân


Kết quả hình ảnh cho hoa bằng lăng




XUÂN BỪNG CHÁY TRONG LÒNG
NHỮNG NGƯỜI TÂM HUYẾT VỚI TUỔI THƠ
(Cảm nghiệm về ngày Họp mặt-Trao giải cuộc thi “Sáng Tác Cho Tuổi Thơ 2019”)
*Lasan Ngô Văn Vỹ, O.Cist.



Có lẽ tuổi thơ là tuổi ngây thơ, hồn nhiên, trong sáng, vô tư… là tuổi được coi là đẹp nhất của đời người. Ai cũng có một tuổi thơ. Rồi tuổi thơ vụt mất. Tuổi thơ theo quy luật tự nhiên sẽ trôi qua theo dòng thời gian, không thể níu kéo. Thế nhưng, hãy giữ mãi “tâm hồn trẻ thơ” là lời tuyệt vời Đức Giêsu muốn nhắn nhủ với tất cả mọi người (x. Mc 10,13-16). Bởi chưng khi nào tâm hồn còn “trẻ thơ”, khi ấy còn mùa xuân, một mùa xuân bất tận.
“Xuân xuân ơi xuân đã về… Xuân xuân ơi xuân đến rồi”… Sắc xuân chợt bừng lên trong chúng tôi rất lạ qua cuộc họp mặt cùng Đức Cha Giáo phận Qui Nhơn, quý cha, quý tu sĩ, cô chú anh chị em... khắp bốn phương tâm huyết với tuổi thơ, tựu về Chủng viện Qui Nhơn ngày 21-22 tháng 9, nhằm dịp sinh nhật lần thứ 107 của thi sĩ Hàn Mạc Tử. Đặc biệt cuộc sum họp năm nay còn diễn ra lễ trao giải CUỘC THI SÁNG TÁC CHO TUỔI THƠ 2019. Buổi họp mặt và trao giải thật thú vị lưu lại những ấn tượng sâu sắc trong lòng chúng tôi.
Điều đáng nói ở đây, tuy buổi sum họp bên nhau chỉ diễn ra khoảng hơn một ngày, nhưng “xuân” của tình huynh đệ, “xuân” của tình thân ái nơi chúng tôi thật đậm đà thắm thiết. Không còn khoảng cách tôn giáo, nghề nghiệp, tuổi tác, giới tính nữa, trong chúng tôi lúc ấy là:
Dòng cảm xúc đầu tiên
Niềm vui mừng khôn xiết
Hòa đồng cùng thân thiết
Khắc ân tình anh em.
Hầu như từ lúc gặp mặt cho đến lúc chia tay bầu không khí luôn rộn ràng “hương sắc xuân” qua những lời chào, lời thăm hỏi và chia sẻ với nhau về đủ chuyện trên đời! Mỗi người một quê nhưng về đây không còn quê riêng nữa, mỗi người mỗi thao thức riêng nhưng về đây cũng không còn thao thức riêng nữa, bởi chúng tôi có chung một mối bận tâm lo cho tương lai của trẻ thơ Việt Nam. Chúng tôi như gặp lại “xuân” của đời mình qua từng sáng tác cho tuổi thơ. Thật vậy:
Xuân kia sắc thắm mai đào
Xuân đây rộn rã thăm chào ôm hôn
Nắng xuân bừng sáng khai môn
Cao niên xuân nở tươi hồn trẻ thơ.

Bên cạnh đó, “tình xuân” thắm sắc nơi lòng cảm phục, biết ơn của mỗi chúng tôi. Qua những cuộc chuyện vãn thân tình, nhiều anh chị em lần đầu tiên được gặp gỡ tiếp xúc với Linh mục Trăng Thập Tự, trưởng Ban Văn hóa Giáo phận Qui Nhơn, đã bày tỏ lòng cảm phục mến yêu “Ông Trăng”. Người cha ấy với dáng người hao gầy, mái tóc bạc trắng, ăn mặc giản dị… thế mà sức “xuân” trong ngài luôn đầy ắp, tràn ra một nụ cười luôn tươi nở trên môi. Ngoài sự uyên bác về văn thơ và tài tổ chức lãnh đạo, ngài thực sự là một “Ông Trăng” dành trọn tâm huyết cho tuổi thơ, đồng thời là người cha khả ái, thân thiện gần gũi, quan tâm lo lắng tới việc đi lại, miếng ăn, giấc ngủ cho từng thành viên trong dịp họp mặt. Cảm nghiệm được tình thương yêu vô bờ của “cha già dấu yêu”, bạn Dương Thái Chân xúc động chia sẻ trên Facebook cá nhân: Thấy người già hơn, bận rộn nhiều, lo lắng mọi sự, đứng ngồi không yên trong lễ trao giải… “Thương quá thương!”
Đặc biệt “Xuân đức tin và hy vọng” cũng bừng sáng trong tâm hồn chúng tôi, những người Công giáo cũng như người các tôn giáo bạn, khi nghe bạn Lệ Hằng kể về hành trình tin Chúa (Lệ Hằng đạt Giải Nhì với truyện ngắn MÌNH KHÔNG CÓ CHÚA), như khơi thêm niềm tín thác của chúng tôi vào Chúa. Lệ Hằng kể:
Năm 2004-2005 Hằng là học sinh lớp 10 trường chuyên Quốc Học Huế, quê Hằng ở huyện Hương Thủy cách thành phố tầm 20km, nên Hằng phải thuê phòng trọ tại thành phố để đi học. Hằng ở trọ trong một kiệt trên đường Nguyễn Huệ, đối diện Dòng Chúa Cứu Thế. Nhà Dòng có phòng tự học mở ra cho sinh viên, không phân biệt tôn giáo. Một ngày mùa đông 2004, Hằng thấy nhà thờ Dòng trang trí Giáng Sinh nên tò mò đến hành lang thánh đường để xem, chứ không dám bước vào bên trong. Hình như lúc ấy mọi người đang dựng lại cảnh Chúa ra đời, có máng cỏ và 3 tượng người: 1 tượng đàn ông, 1 tượng phụ nữ và 1 tượng hài nhi. Hằng biết trong ba người sẽ có một người là Chúa, nhưng không biết cụ thể ai là Chúa. Hằng tiến lại hỏi người đang quét dọn hành lang: "Chú ơi chú, trong ba người này thì ai là Chúa?". Sau này mới biết chú ấy chính là cha Giuse Nguyễn Quốc Việt (Dòng Chúa Cứu Thế). Hằng đã hỏi khá nhiều về đạo Công giáo lúc cha quét dọc hành lang, và được cha giải thích tận tình.



Về sau, bà con Hằng có người biết Hằng thường xuyên lui tới nhà thờ, và gia đình Hằng cũng biết. Ở làng Hằng, đa phần mọi người không hiểu gì về đức tin Kitô giáo, lại còn kỳ thị và báng bổ Chúa nữa. Nhiều người ái ngại vì thấy rất rõ tâm nguyện và sự tin yêu của Hằng với những gì Hằng học biết về Đạo. Ai cũng nghĩ nếu để Hằng đến nhà thờ thường xuyên e là Hằng sẽ theo Chúa. Từ đó, gia đình cấm cản…
13 năm đã qua đi, rất nhiều ký ức đã bị thời gian bào mòn và làm phai mờ, duy chỉ có một điều luôn in đậm sâu trong trái tim Lệ Hằng không chút phai nhòa, không gì có thể tẩy xóa: “Thiên Chúa là Tình Yêu. Chúa ở cùng tất cả chúng ta và Chúa ở trong tất cả chúng ta. Chỉ cần trong tim con có tình yêu, có bác ái thì con cũng có Chúa rồi…”. Đây là điều cha Việt đã nói với Hằng và bằng con đường sáng tác, Hằng đã viết lại điều này qua “Mình Không Có Chúa” trong sự khắc khoải nhớ về thời gian ngắn ngủi được “biết Chúa” ấy.
Chúng tôi sinh ra trong gia đình đạo gốc, không giống hoàn cảnh của Hằng, nhưng cũng cảm được phần nào những hy sinh và cái giá đắt em trả cho Đức tin tinh tuyền vào Chúa. Đức tin của Hằng như “âm vang” Đức tin của các bậc tiền nhân đã bị sát hại vì Chúa vào năm 1885, thời Văn Thân, mà ngày hôm sau (22-09) chúng tôi hân hạnh được đến hành hương và tưởng niệm. Được biết: Năm 1885, 80 giáo dân Phương Phi cùng với 110 giáo dân Xóm Chuối đã đến Qui Nhơn để lánh nạn Văn Thân, một số đi ghe ven theo bờ đầm Thị Nại, một số khác đi bộ dọc theo bán đảo Phương Mai, một số ít còn nán lại nên bị Văn Thân sát hại. Ngày nay tại Xóm Chuối có một ngôi mộ của các tín hữu bị sát hại này. Ngoài ra một số giáo dân từ Phương Phi chạy ra Vĩnh Hội cũng bị Văn Thân sát hại. Hiện nay còn hai ngôi mộ tại Vĩnh Hội, cư dân gọi là mả đạo. Lòng tin can trường nơi các bậc anh hùng tử vì đạo phấn khích chúng tôi hãy “cháy hết mình” vì tình yêu Chúa và tình yêu nhân loại.
Qua chuyến du hành lên Chùa Ông Núi, đến viếng mộ thi sĩ họ Hàn, mỗi anh chị em trong đoàn được hiểu biết thêm về cuộc đời và tác phẩm của người thi sĩ tài ba. Từ đó gợi lên trong mỗi người có những tâm tình riêng với Anh, có những cảm tác mới về Anh. Như một tác giả trong đoàn, chị Lương Mỹ Hạnh (Sơn La), đã viết:
MỘNG THI NHÂN
Biển quẫy tung con sóng bạc
Xanh trầm ngẫm chuyện thế gian
Vườn thi hoa vàng hóa điệp
Chở giấc mơ thu muộn màng.

Sao người vội về nơi ấy
Núi Ông khắc đá câu thề
Biển Qui Nhơn bao giờ cạn?
Thét gào vọng đến mai sau...

Xuân xanh hãy còn hơn nửa
Tài hoa chi lắm trời đày
Trăng thi chạm "Hàn" rỏ máu
Rưới hồng lối cũ thương đau.

Thuyền ai xua tan sương khói
Cánh buồm phất "nắng mới lên"
Hồn thi thả tình theo gió
Biển êm.

Buổi họp mặt còn là xuân của sự trau dồi kiến thức. Cha ông ta thường nói: “Đi một ngày đàng học một sàng khôn”. Quả vậy, trong cuộc hạnh ngộ hôm ấy, chúng tôi học biết thêm về tâm lý của tuổi thơ và phong cách viết cho tuổi thơ qua những chia sẻ của Ts. Lê Nhật Ký, giảng viên Đại học Qui Nhơn, trình bày về “Sáng Tác Cho Lứa Tuổi Nhỏ”. Rồi qua những gặp gỡ chia sẻ thân tình với Nhà báo Hoàng Mạnh Hà- chủ biên báo Đồng Hành, và Nhà báo Nguyễn Văn Học- Hội Nhà Văn Việt Nam, chúng tôi biết thêm về các thể loại báo chí, nhu cầu của các độc giả hiện nay, cũng như cách in ấn phát hành sách báo… Tất cả như khơi lên sức xuân, gợi hứng cho chúng tôi có nhiều đề tài cảm tác mới lạ cống hiến cho đời.



“Xuân của lòng biết ơn”: Cảm nghiệm mùa xuân đang rộn rã trong tâm hồn mỗi tham dự viên. Xin chân thành cảm ơn và chúc mừng Ban Văn hóa Giáo phận Qui Nhơn đã tổ chức hết sức chu đáo và thành công tốt đẹp, một cuộc họp mặt và trao giải cho các tác giả Sáng Tác Cho Tuổi Thơ đầy ý nghĩa này. Cảm ơn quý ban Giám khảo, quý Thầy, quý Sơ, quý ông: Xuân, Tường, Thiêng, Bảo… Sự nhiệt tình thân ái của quý vị làm chúng tôi cảm nếm “xuân đang bừng sáng trong tâm hồn”. Chúng tôi cũng cảm ơn nhau vì sự hiện diện quý báu thân tình. Nhưng trên tất cả, xin cảm đội ơn Chúa là Cha nhân lành đã yêu thương quy tụ “anh chị em” chúng tôi từ khắp muôn phương về đây, để chia sẻ tình huynh đệ mặn mà thắm thiết, da diết khôn nguôi.
Dẫu chỉ có hơn một ngày họp mặt, được sum vầy để chia chung cùng một thao thức giáo dục tuổi thơ, nhưng tình thân ái đã nẩy nở thắm thiết lạ lùng nơi chúng tôi. Đến giờ phải chia tay, nhiều người không giấu được cảm xúc dâng tràn… giọt xuân trên mí mắt. Dường như ai cũng ước mong sẽ có nhiều dịp được sum họp, và cộng tác lâu dài trong việc phục vụ “những món ăn tinh thần” bổ ích cho các em thơ.
Chúng tôi, những người tâm huyết với tuổi thơ, lên đường và mang cả mùa xuân tung gieo khắp đất trời, với nhiệt huyết nguyện dâng cho đời những áng thi văn đong đầy niềm tin yêu con người, cuộc sống. Và với một khát vọng cháy bỏng: Trẻ thơ Việt Nam luôn được sống hồn nhiên, trong sáng, vui tươi như mùa xuân của đất trời.


CẢM NẾM TÌNH YÊU

Trần Thị Cẩm Lệ  (Bình Định)

Hình ảnh có liên quan

Sống ở đời, chắc hẳn ai cũng đã từng yêu và được yêu, nhưng lại chẳng có ai định nghĩa được tình yêu một cách trọn vẹn. Nhà văn Victo Hugo cho rằng “yêu là nửa phần tư tưởng”, nhà thơ Xuân Diệu lại nói “yêu là chết trong lòng một ít”, còn đối với tôi tình yêu là một huyền nhiệm.
Tình yêu là một cái gì đó vô hình không thể thấy bằng mắt, không thể nghe bằng tai, không thể nếm bằng miệng, cũng không thể nắm bằng tay mà chỉ cảm nhận được bằng con tim. Tình yêu tuy vô hình nhưng chứa chan đầy hương vị thanh cao và hy sinh. Tình yêu có nhiều cung bậc và sắc thái khác nhau. Cha mẹ yêu thương con cái qua công sinh thành dưỡng dục, sống trọn cuộc đời chỉ để lo cho con cái có một cuộc sống sung túc. Anh chị em yêu thương nhau qua việc nhường nhịn nhau, sống thuận hòa… Và còn nhiều, nhiều nữa, nhưng đó mới chỉ là tình cảm trong gia đình. Còn với đôi lứa yêu nhau cũng được thể hiện qua từng cử chỉ hành động: Luôn quan tâm, chăm sóc nhau, và đặc biệt là qua những cái nắm tay siết chặt, những cái nhìn say đắm có chút ngượng ngùng của thưở ban đầu… Nếu có ai hỏi tôi tình yêu như thế nào, tôi sẽ trả lời: Nó tuyệt vời lắm! Bởi bản thân tôi đã từng một lần yêu: đắng, cay, ngọt, bùi đều có đủ. Cũng như cầu vồng cần có nắng có mưa để làm nên màu sắc của nó, thì tình yêu cũng thế, cũng trải dài theo những tháng nắng ngày mưa.
Sẽ là gì nếu hai người kết hôn với nhau mà không có tình yêu? Sẽ là gì nếu một tu sĩ không yêu Chúa? Và vì điều gì mà Con Thiên Chúa từ bỏ tất cả để xuống thế làm người, để sống một cuộc sống như con người, để chịu sỉ nhục và cuối cùng chịu chết trên cây thập giá?
Đó chẳng phải tình yêu thì là gì? Một “Tình yêu nhập thế”.
Nhớ cuối tháng Tám vừa rồi, tôi có tham dự tĩnh tâm tại Đan viện Xitô Mỹ Ca. Đã nhiều lần tôi bước vào khuôn viên của các dòng nam, nhưng đây lại là lần đầu tiên được tận mắt nhìn thấy cảnh sinh hoạt, những giờ kinh nguyện của các thầy. Giờ kinh phụng vụ, giọng nam trầm ấm vang khắp cả khu nguyện đường. Tôi nhớ mãi những khuôn mặt rạng rỡ khi khoác trên mình bộ quần áo lao động để đi làm lao tác. Tất cả trong thinh lặng nhưng lại chứa đựng niềm vui.
Một buổi chiều dạo quanh bờ hồ, cầm quyển Kinh Thánh tôi nguyện gẫm. Cả thời gian và không gian đều quá lí tưởng, thế nhưng tôi lại không suy gẫm theo Tin Mừng mà lại nghĩ về đời sống các thầy trong Đan viện nhiều hơn. Nghe có chút lãng mạn mơ tưởng, nhưng không, tôi đang nghiêm túc đấy! Một chủ đề quá rõ ràng. Tôi tự hỏi: “Vì đâu mà những thanh niên trai tráng, dáng vẻ cũng khôi ngô, có tài năng như thế mà lại vào đây?”. Sau giờ kinh sáng, các thầy người quét sân, người thì dọn rác (hình ảnh này làm tôi nhớ lại lúc tôi còn dự tu, cả năm trời cứ sáng là cầm chổi quét sân, mà tôi thích gọi là múa ba-lê hơn). Nhìn các thầy người thì cho cá ăn, người dọn vườn chăm sóc cây, người đi chợ, người nấu ăn… mỗi người mỗi việc khác nhau, nhưng có một điểm chung làm tôi rất thán phục là việc giữ thinh lặng. Không gian cứ thế yên ắng lạ thường. Từng ấy con người mà vẫn lặng thinh. Công việc đó với những thanh niên bên ngoài như xa vời quá, nghe hư cấu quá, nhưng lại có thật nơi đây, tại chốn này. Như thế nếu không vì tình yêu thì là gì? Nếu ơn Chúa không tác động thì làm sao có thể làm được? Tôi lại tiếp tục nghĩ suy…
Một chú cá nhảy lên, làm cho bờ hồ đang yên ả lại xuất hiện lăn tăn những gợn sóng. Dòng suy tư của tôi bị ngắt quãng. Câu hỏi vẫn chưa có lời giải đáp. Hình ảnh về cuộc sống các thầy cứ ở mãi trong tâm trí tôi. Không phải là bóng dáng của riêng một ai, nhưng là bóng dáng của những người được Thiên Chúa tuyển chọn: “Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển chọn, hiến thánh và yêu thương”. Quá tuyệt vời cho một tình yêu gọi là dâng hiến.
Hạnh phúc của con là được ở kề bên Chúa (Tv 72, 28). Tình yêu vốn là cốt lõi của hạnh phúc, là đích đến của mọi cuộc kiếm tìm, của mọi nỗi nhớ nhung xao xuyến. Với tình yêu chân chính, người ta có thể vượt qua mọi rào cản, mọi cách ngăn để nên một với người mình yêu. Điều tuyệt vời của tình yêu là cả hai đối tượng được trở nên một trong nhau và vì nhau (Chút gì với Chúa - Tập 8).
Có lẽ các thầy ở đây có một niềm xác tín: “Chúa đang hiện diện, đang sống và cùng sống với các thầy”. Và các thầy hạnh phúc với niềm vui được ở cùng người mình yêu. Như cha giảng phòng đã nói với chúng tôi: “Đôi lứa yêu nhau luôn muốn ở cùng nhau, luôn muốn có một chỗ thân quen để hẹn hò, gặp gỡ. Chỉ cần vai kề vai, tay siết chặt hay ngồi bên nhau là đủ vui, đủ hạnh phúc mà không cần phải nói hay làm bất cứ điều gì”.
Thiên Chúa yêu tôi và Ngài muốn ở cùng tôi. Tình yêu Thiên Chúa là gì nếu không phải là tình yêu ở cùng. Một Thiên Chúa sẽ yêu thế nào được khi cứ ở trên cao nhìn xuống? Làm sao thấu hiểu để cảm thông, để cứu vớt? Quá tuyệt vời vì Thiên Chúa tôi thờ là một Thiên Chúa ở cùng tôi. Cách đây hơn hai ngàn năm, Ngôi Hai Thiên Chúa đã hạ sinh, nơi cung lòng Đức Trinh nữ Maria. Không phải ở lâu đài tráng lệ hay cung điện cao sang, mà là nơi máng cỏ hang lừa giữa đồng hiu quạnh. Không phải là nệm ấm chăn êm, mà là cỏ rơm hôi tanh mùi bò lừa. Một “Ngôi Hai Thiên Chúa” mà lại như thế sao? Câu hỏi ấy theo tôi suốt ngần ấy năm qua, hôm nay tôi lại tự chất vấn mình. Chỉ có thể là tình yêu, tôi thốt lên trong vô thức, từ sâu thẳm cõi lòng vang vọng tiếng “Thiên Chúa là tình yêu”. Khẽ gật đầu, tôi chấp nhận câu trả lời. Nở một nụ cười bình an.
 Bờ hồ vẫn gợn sóng, đàn cá vẫn nô đùa thi nhau đớp mồi. Bầy cò trắng đang bay về nơi trú ngụ, mặt trời đang tỏa bóng hoàng hôn phía sau những dãy núi dài. Còn tôi, tôi như tìm được nguồn sống mới, như được tiếp thêm sức mạnh. Phải chăng tôi đã chạm được Chúa, dù chỉ là một chút…


ĐÊM CHÂU NGỌC

“Khi vạn vật chìm sâu trong thinh lặng, lúc đêm trường chừng như điểm canh ba, thì từ trời cao thẳm, lời toàn năng của Ngài đã rời bỏ ngôi báu.” (Kn 18, 14-15)

Kết quả hình ảnh cho chúa giáng sinh 

                                                                     Đêm sương tĩnh lắng không gian
                                                                     Nghe lòng Gió hát tơ vàng sóng yêu  
                                                                     Đêm Tình Ánh Sáng huyền siêu
                                                                     Chiếu đời tăm tối mở triều thiên ân

                                                                     Đêm châu ngọc… tỏa tinh vân!
                                                                     Kinh giăng lấp lánh cung trần xôn xang
                                                                     Đêm hồng phúc… thắm bình an!
                                                                     Vần thương nở đóa khải hoàn tâm linh     

                                                                     Kìa! Đêm vỗ nhịp nhân sinh!
                                                                     Đức Khôn Ngoan đến tự tình ý thơ
                                                                     Ôm màu bụi đất nguyên sơ
                                                                     Dìu vào Chân Lý bến bờ thanh yên
  
                                                                     Kìa! Đêm mở cửa linh thiêng!
                                                                     Tim Trời hòa điệu sóng miền nhân gian
                                                                     Miết từng khắc khoải đa đoan
                                                                     Thắm tràn ân sủng thành toàn ước mơ

                                                                     Đêm huyền diệu… ánh thiên cơ
                                                                     Phút giây ngời ngợp câu chờ vỡ toang
                                                                     Đêm linh thánh… rực huy hoàng!
                                                                     Hồn say thần nhạc tim choàng Ý Thiên

                                                                     Đêm thanh mọng khiết Vô Biên
                                                                     Ngày đời hữu hạn bỗng viền Cao Xanh  
                                                                     Lòng reo tấu khúc vinh danh
                                                                     Niềm vui Cứu Độ ơn lành thế nhân!

                                                                                                                    An Thiện Minh


MÙA ĐÔNG NĂM ẤY

Pađôva (ĐCV Sao Biển – Nha Trang)

Kết quả hình ảnh cho chúa giáng sinh ra đời

Khi những bài thánh ca Giáng sinh đã bắt đầu vang lên, hòa với tiết trời se lạnh, báo hiệu một mùa Giáng sinh nữa lại đến. Những hang đá đã xuất hiện nhiều ở các giáo xứ, nơi các gia đình, cộng với những ánh đèn với đủ loại màu sắc tô thêm vẻ đẹp cho gia đình Nadarét năm xưa. Không khí thật hạnh phúc vui tươi và ấm áp là thế, nhưng lòng Đăng lại thấy buồn và trĩu nặng khi nhớ về giáo xứ với một “Giáng sinh buồn” cách đây hai năm trước.
“Alô! Đăng hả, biết tin gì chưa? Cha xứ qua đời rồi đó”. Lời thông báo của Hoàng làm cho Đăng cảm thấy “sốc” và bàng hoàng. Định thần lại, hắn cầm điện thoại gọi về cho gia đình, hắn gọi hết cho ba, cho mẹ, cho chị nhưng không ai trả lời hắn. Và rồi linh cảm báo cho hắn biết “hung tin” mà Hoàng thông báo cho hắn là đúng sự thật.
Lòng hắn buồn, trĩu nặng. Ngồi một mình trong căn phòng của ký túc xá, bao nhiêu kỷ niệm, ký ức về cha xứ ùa về trong tâm trí hắn như một cuốn phim đang được chiếu trước mắt hắn.
* * *
Cha về nhận xứ khi hắn vừa tròn bốn tuổi. Ở cái tuổi đang bập bẹ từng chữ cái, nhưng hắn rất có “ấn tượng” với cha. Nhà hắn ở ngay bên hông nhà thờ, hằng ngày hắn vẫn theo anh chị lên nhà thờ chơi với tụi bạn cùng lứa. Rồi những lần được cha dẫn vào phòng cho bánh, cho kẹo… nên dần dà hắn “kết thân” với cha luôn. Chắc cũng tại lý do đó mà hắn có “ấn tượng” với cha.
Về nhận giáo xứ nơi vùng quê nghèo, lòng cha ấp ủ biết bao nhiêu kế hoạch để giúp giáo xứ phát triển. Cha từng bước cố gắng xây dựng đời sống đạo đức cho đoàn chiên, gây dựng những đoàn thể trong giáo xứ, xây dựng cơ sở vật chất cho giáo xứ… Dù cha bận trăm công nghìn việc, nhưng hắn luôn thấy cha dành thời gian quỳ trong nhà thờ. Lúc nhỏ hắn không hiểu, nhưng về sau hắn mới hiểu cha quỳ để làm gì.
Thời gian dần trôi qua, tuy hắn ở trong ban lễ sinh nhưng những buổi học thêm, học bớt đã chiếm hết thời gian của hắn, làm cho những lần gặp gỡ, những cuộc nói chuyện giữa hắn với cha ngày càng ít đi. Dù ít gặp gỡ nhưng cha vẫn dành cho hắn sự quan tâm, cha vẫn “theo dõi” hắn từ xa. Hai ba ngày không thấy hắn đi lễ, đi nhà thờ là cha đã hỏi thăm, đã xuống nhà xem hắn có bị làm sao không. Và rồi trong xứ ai cũng bảo hắn là con thiêng liêng của cha.
Rồi cũng đến lúc hắn trưởng thành, hắn trở thành một chàng thanh niên với những hoài bão, những ước mơ. Ngày hắn nhận giấy báo trúng tuyển đại học ai trong gia đình hắn cũng vui, cũng hãnh diện về hắn, và tin vui ấy cũng đến tai cha. Vẫn là sự điềm tĩnh như những lần gặp gỡ trước đây, nhưng cha vẫn không che giấu được niềm vui và hạnh phúc khi nghe được tin “trọng đại” này.
Những ngày nghỉ hè cũng dần khép lại, ngày nhập học cũng tới gần, lòng hắn nao nức vì từ nay được tự do thoải mái “bay nhảy” nơi một vùng đất mới, vùng đất Sài Thành. Ngày hắn chào cha đi học, ngài không khuyên hắn một điều nào ngoài lời dặn dò ngắn ngủi: “Cố gắng học tập và sống tốt nghe con”, cùng với chiếc phong bì làm “lộ phí” đi đường.
Đặt chân lên đất Sài Thành sau một đêm dài nằm trên xe khách, hắn có cảm giác sờ sợ vì cuộc sống ở đây quá tấp nập, ồn ào náo nhiệt, không như vùng quê nghèo nhà hắn. Ngôi trường hắn chọn để thực hiện ước mơ nằm ở vùng ven ngoại thành. Hắn cảm thấy buồn vì nhớ nhà, nhớ ba mẹ, nhớ anh chị em, nhớ cha xứ, nhớ những công việc giúp lễ hàng ngày… Và những lúc đó, cha là chỗ dựa để hắn “trút” hết nỗi buồn của kẻ xa xứ.
Sau một thời gian làm quen và tập “thích nghi” với cuộc sống sinh viên, hắn bắt đầu quen được nhiều bạn bè, hắn bắt đầu bắt nhịp được với cuộc sống nơi phồn hoa đô thị. Và rồi nỗi buồn của hắn dần dần cũng được vơi đi, hắn cảm thấy cuộc đời vui tươi, hạnh phúc hơn.
Khi cuộc đời bắt đầu vui tươi và hạnh phúc hơn thì cuộc sống của hắn cũng bắt đầu bước vào một “thời kỳ” mới. Những “sợi dây” liên lạc của hắn với gia đình, với những người thân yêu và nhất là với cha xứ cũng bắt đầu thưa dần, họa chăng lâu lâu mới được một cái tin nhắn hỏi thăm, chúc mừng bổn mạng, ngày kỷ niệm thụ phong linh mục… Những công việc đạo đức mà hắn vẫn quen làm trước đây đối với hắn giờ thật là “xa xỉ”! Những cuộc hẹn hò, những lần ăn uống cùng bạn bè đã chiếm hết thời gian của hắn. Hắn dường như không còn “tha thiết” gì với việc học tập, việc đạo đức, việc nuôi dưỡng ơn gọi mà cha đã ươm mầm nơi hắn. Và còn tệ hại hơn, hắn “quên” luôn hắn là một người Kitô hữu, một người con của Chúa.
Ngồi lặng yên trong căn phòng ký túc xá, nước mắt hắn tràn trề. Hắn như người con hoang đàng không biết hướng phải đi đâu về đâu. Giờ đây hắn mới nhớ tới Chúa, tới gia đình, tới cha xứ. Hắn nhớ tới Chúa không phải vì ăn năn sám hối, nhưng là nhớ đến Chúa để “trách” Chúa. Hắn “trách” Chúa sao Ngài lại nỡ lấy đi người cha thân yêu của hắn, của giáo xứ. Hắn “trách” Chúa sao Ngài “ác” với hắn quá vậy, vì Ngài thừa biết cha là người quan trọng đối với hắn thế nào mà… Hết “trách” Chúa hắn lại đặt ra vô số câu hỏi đối với Chúa: Tại sao mầu nhiệm Nhập Thể Con Thiên Chúa làm người trao ban niềm vui, bình an cho nhân loại, thế mà giờ đây cả giáo xứ hắn đang “chìm ngập” trong bầu khí tang thương, màu tím đau thương đang “bao phủ” mọi con chiên của giáo xứ. Vậy liệu rằng Con Chúa Nhập Thể có thật sự mang lại hạnh phúc, bình an cho con người như lời sứ thần hát vang không: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm”…
Đang loay hoay trong vô số câu hỏi mà hắn đang đặt ra không lời giải đáp, tiếng chuông điện thoại vang lên như kéo hắn về với thực tại. Vội lau dòng nước mắt mà hắn không biết đã chảy ra từ bao giờ, hắn cầm lấy điện thoại lên và nghe giọng nói ấm áp của mẹ: “Về nhà đi con, cha xứ mất rồi”. Hắn nghe mẹ khóc và nước mắt hắn lại rơi xuống. “Dạ, tối con về”, hắn đáp lại một cách ngắn gọn.
Nằm trên xe từ Sài Gòn về, hắn không thể nào chợp mắt dù người hắn đã rất mệt. Cứ mỗi lần chợp mắt là hắn lại nhìn thấy cha với một nụ cười hiền hậu. Hắn cứ thao thức, trằn trọc cả đêm, rồi hắn tự đặt cho hắn câu hỏi: Chúa muốn nói với hắn điều gì qua biến cố này đây? Sao không phải là dịp khác mà đúng ngay lúc cả nhân loại đang háo hức mừng sinh nhật của Ngôi Lời Nhập Thể? Dòng suy tư của hắn cứ miên man trong suốt hành trình.
Màu tím của cờ tang “bao phủ” giáo xứ hắn, cha nằm yên trong chiếc quan tài với khuôn mặt đầy vẻ hiền từ và phúc hậu. Đứng bên quan tài, hắn chỉ biết khóc và xin lỗi cha: “Con xin lỗi bố”. Cột lên đầu chiếc khan tang đưa tiễn cha về nơi an nghỉ cuối cùng, hắn đi như người mộng du, lê từng bước chân nặng trĩu. Hắn buồn vì sự ra đi đột ngột của cha, và hắn thấy mình quá xấu hổ đối với những gì cha đã làm cho hắn.
Thánh lễ an tang kết thúc, hắn trở lại công việc học tập của mình với một quyết tâm mới. Hắn cố gắng học tập để không phụ lòng mong đợi của những người thân yêu, của cha xứ đã khuất. Đặc biệt hơn, hắn tìm về lại với Chúa. Đã từ lâu, hắn không tham dự thánh lễ, không kinh sách, giờ đây hắn quyết tâm “làm mới lại” tình yêu mà hắn dành cho Chúa như lúc trước. Hắn đi lễ. Hắn xưng tội. Hắn cầu nguyện… Và cùng với những lần thinh lặng trước Thánh Thể Chúa, trước Hài Nhi Giêsu mà hắn nhận ra ý nghĩa của biến cố đau thương mà hắn vừa trải qua. Hắn nhận ra tình yêu thương của Chúa vẫn ấp ủ hắn.
Giờ đây, hắn thầm tạ ơn Chúa đã ban cho hắn một mùa Giáng sinh ý nghĩa. Một mùa Giáng sinh hắn được “sinh ra” lại cùng với Hài Nhi Giêsu, để từ đây cùng với Hài Nhi hắn sống đúng với địa vị làm con Chúa trong lòng Giáo hội. Nghĩ tới đây hắn sực nhớ đến cha xứ, và hắn cũng dâng linh hồn cha cho Hài Nhi Giêsu với lời kinh: “Con cậy vì Danh Chúa nhân từ, cho linh hồn cha cố được lên chốn nghỉ ngơi, hằng xem thấy mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng”…


HOA TRONG SỎI ĐÁ

Ngô Trung Hậu (Tiền Giang)

Kết quả hình ảnh cho hoa trong sỏi đá

Nguyệt bỏ cái điện thoại xuống bàn, tháo cặp mắt kính xuống, uể oải nhìn đồng hồ rồi nhìn ra ngoài đường. Đường sá vắng tanh không một bóng người. Đã gần 3 giờ sáng, giờ này thiên hạ đang say giấc nồng, mấy ai còn ra đường làm gì. Công việc của một y tá trực đêm như cô thật đơn giản đến mức nhàm chán: Hết tám chuyện với đám bạn “cú đêm” trên điện thoại cho qua thời gian thì chơi game giải sầu, đôi khi lại chúi đầu vào những đoạn clip hài để rồi tự cười một mình, rồi nghe nhạc… Tất cả những việc đó chỉ để chống chọi cho qua một đêm trực dài lê thê. Bác sĩ Hưng cùng ca trực có lẽ đang say giấc mộng vàng. Nguyệt ngáp dài. Thật là chán! Thôi rán chút nữa, hết ca là cô có thể về và ngủ bù cho ngày cuối tuần rồi…
“Két…két…két…”
- Từ từ đã chứ! Làm cái gì vội vậy cha? Máu thấm cả áo mới của tôi rồi nè…- Một giọng nữ bực bội vang lên vì chiếc xe thắng gấp làm cô ta bị ngã chúi đầu.
- Cô ơi, cứu người như cứu hoả mà chần chừ sao được chứ! Mạng người đấy…
Một người đàn ông trung niên khoảng chừng 40 tuổi, bồng vội một đứa trẻ khoảng hơn 10 tuổi từ tay cô gái, rồi chạy nhanh vào phòng khám. Cô gái tỏ vẻ hơi khó chịu vì máu của nạn nhân nhuộm đỏ áo khoác bên ngoài, vấy cả vào cái áo hàng hiệu mới tinh mà có lẽ cô ta mới mua mấy ngày trước…
- Ê, ê… Ông kia, đi đâu đấy?
- Dạ… Phòng cấp cứu…
- Ở bên này kia mà!- Nguyệt cau có đưa tay chỉ.
Cô đưa tay nhấn chuông… Mấy phút sau, ánh điện phòng cấp cứu sáng lên…
- Người nhà của cô đó hả?- Nguyệt hỏi khi thấy cô gái đang đứng nhìn theo người đàn ông.
- Làm gì có đâu chứ! Tôi còn không quen ông ta nữa là…
- Vậy còn đứa trẻ kia?
- Lang thang ngoài đường. Chắc nó bị xe tải tông. Ông ta chạy xe ôm, còn tôi là khách. Khi chúng tôi đến nơi thì nó đã nằm lăn ra đó rồi. Không có ai ở đó cả… Đúng là làm ơn mắc oán! Tự dưng lại rước hoạ vào người… Hỏng cả bộ đồ mới của tôi. Còn mất cả giờ ngủ nghỉ nữa… Lẽ ra giờ này tôi đã có thể ngủ ngon một giấc rồi… Làm cả đêm, mệt muốn mờ cả mắt ra đấy!
Cô gái che miệng, ngáp dài… Phản ứng của cô gái, Nguyệt không thấy lạ. Ở cái thành phố hoa lệ này tập trung đủ hạng người khắp mọi miền đất nước, đâu có mấy người quen biết nhau. Hơn nữa, người ở đây mạnh ai nấy sống, hàng xóm khít vách mà đôi khi cả tuần cũng chẳng còn thấy mặt nhau nữa chớ nói gì đến chuyện quen biết. Nhưng người đàn ông kia, cớ gì phải đi lo chuyện thiên hạ làm gì? Ông ta có quen thằng nhóc kia đâu, việc gì phải lo lắng, quan tâm tới nó như vậy…
- Ông đóng viện phí 250.000đ nhé!- Nguyệt nói khi thấy người đàn ông từ phòng cấp cứu trở lại.
- Ơ, nhiều thế kia à? Tôi cứ tưởng sau khi ra viện mới đóng chứ!- Người đàn ông bối rối.
- Cứ tạm đóng trước đã, phần còn lại sẽ thanh toán sau.- Nguyệt gắt.
- À, ra là vậy…
Người đàn ông lần mò trong túi áo, lấy ra một xấp tiền nhăn nheo.
- Cô ơi, cô có tiền không? Cho tôi mượn thêm một ít… Tôi chỉ còn ở đây 112.000đ thôi.- Ông ta quay qua cô gái đi cùng.
- Cái gì? Cho ông mượn tiền nữa hả? Tôi có nghe lầm không đấy?- Cô gái cau mặt, quắc mắt lên nhìn người xe ôm.
- Thì…thì… coi như là tôi nợ cô vậy. Tôi sẽ trả lại cho cô đầy đủ mà. Ngày nào tôi lại chẳng đón khách ở quán nơi cô làm việc chứ. Cứu người quan trọng hơn… Coi như tôi năn nỉ cô vậy. Coi như cô làm phúc giúp cho thằng bé tội nghiệp.- Anh xe ôm ôn tồn, nhưng giọng như nài nỉ, van xin.
- Tôi mắc với nợ nhà ông thì có! Tự dựng xui xẻo. Đang yên đang lành… Nếu không thì giờ tôi đã ngủ một giấc ngon lành rồi! Làm đêm hôm khuya khoắt mới có được ít tiền. Bộ áo mới tôi phải dành dụm bao lâu mới mua được, giờ dính đầy máu, coi như bỏ… Bây giờ còn hỏi mượn tiền nữa hả?
- Thôi, coi như tôi xin cô vậy. Tôi vốn đâu có quen thằng bé đâu. Giống như người Samari trong Kinh Thánh vậy, tôi mong cho nó sống. Còn lại thì mọi chuyện tính sau… Tôi chạy xe kiếm sống nhưng cũng đi lễ mỗi ngày đó cô ạ! Chúa dạy chúng ta phải yêu thương kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét mình. Nhưng thằng bé đâu đến nỗi là kẻ thù đâu! Dù sao, mạng người cũng quan trọng cô ạ… Chúa đã yêu thương chúng ta đến nỗi chết trên thập giá, và Người cũng mong mỏi chúng ta phải yêu thương nhau. Yêu người sẽ được người yêu lại. Chúa sẽ thương xót cho những ai kính sợ Chúa…
- Thôi đi “cha” ơi! “Cha” đừng có giảng đạo cho con nữa. Con nhức đầu lắm rồi…
Cô gái bực bội nhìn ông xe ôm một lúc, định nói gì đó, nhưng lại thôi. Cô móc tiền trong túi ra.
- Thôi, coi như bữa nay ông may mắn. Chỉ mình tôi là xui xẻo!
- Cảm ơn cô nhiều nhé! Chúa sẽ chúc lành cho cô. Thôi, tôi đi đóng viện phí đây…
Cô gái trẻ đưa mắt nhìn theo anh xe ôm. Với anh, cô chỉ có thể tạm gọi là “biết” chứ chưa “quen” được, vì anh thường hay đứng đón khách ở gần quán bar nơi cô làm việc, và cô cũng có hai lần làm khách hàng của anh. Lúc anh hỏi mượn tiền viện phí, cô đã định không cho, nhưng vừa nãy nhìn thấy xâu chuỗi Mân Côi trên tay khi anh cởi chiếc áo khoác ra quấn cho thằng bé, và sợi dây chuyền có hình thập giá cùng với mấy lời “giảng” về người Samari mà cô đổi ý. Cô nhớ trước đây nhiều năm, khi còn rất nhỏ, ở vùng quê nghèo xa xôi với những đợt gió nóng nung người mùa hạ và những cơn rét run của mùa đông, cô đã từng được đi lễ nhà thờ. Nhưng cái nghèo, cái khổ, cái đói ăn đã đưa cô và gia đình lạc trôi khỏi quê hương. Cô còn nhớ mang máng những bài hát du dương, những điệu múa uyển chuyển của buổi chiều dâng hoa, những buổi học giáo lý chuyền tay nhau mấy viên kẹo me chua ngọt, những cú “đạn chỉ thần công” chính xác vào mấy cậu bạn “khó ưa” làm chúng nó giật nảy người. Cô nhớ hình ảnh chiếc áo đầm trắng tinh mà cô đã từng được mặc trong ngày được Rước Lễ lần đầu… Những hồi ức của tuổi thơ cứ lần lượt quay về. Cái ông xe ôm “dở hơi, xui xẻo” hay “giảng đạo” kia đã vô tình giở lại trong cô những trang nhật ký cuộc đời đã bị ố vàng theo năm tháng. Cô đã chạy theo vòng xoáy của mưu sinh, đã quen với những sự lọc lừa, cạnh tranh nơi cái thành phố nhộn nhịp này. Những điệu múa gợi cảm, mùi nước hoa và những thỏi son môi loè loẹt, những cốc bia mà cô phải cố gắng uống một hơi cạn sạch để nhận được cái gật đầu, nụ cười và chút tiền boa của những đại gia lắm tiền nhiều của. Dù chưa đến nỗi “bán phấn buôn hương” để “mua vui cũng được một vài trống canh”, nhưng đó cũng là một nghề gần như mạt hạng. Hôm nay, cô bị lôi vào một chuyện chẳng đặng đừng, nhưng anh xe ôm đã trả lại cho cô một điều còn quý giá hơn: Cô nhớ ra mình là một người có đạo…
- Hay quá, coi như xong phần viện phí.- Ông “cha” xe ôm kia đang quay lại.
- Đóng tiền rồi đấy à!- Cô liếc mắt nhìn, kèm theo nụ cười nhạt cho có lệ vì vẫn còn xót cho bộ áo mới, giờ đã bị thấm loang lổ vết máu.
- Cô cứ yên tâm! Tôi sẽ đền cho cô bộ đồ khác, sẽ đưa cô về tận nơi yên ổn, sẽ trả nốt phần tôi nợ cô lúc nãy.- Anh nói và nở nụ cười hiền lành.
- Gớm thật! Hiểu được người khác nghĩ gì kia à?
- Này, cô có biết gần đây có tiệm cầm đồ không?- Ngồi xuống độ mấy phút, anh ta lại hỏi.
- Lại có chuyện gì nữa đây! Sao tự dưng lại hỏi tiệm cầm đồ?- Cô gái tò mò.
- Tôi định đem cầm chiếc xe máy để lấy chút tiền…
Thấy người đối diện có vẻ ngạc nhiên. Anh hắng giọng rồi nói tiếp:
- Mấy ngày qua ế khách quá… Hai đứa con nhỏ ở nhà lại đến lúc phải đóng tiền trường rồi, lại mấy bữa nay trở trời, mẹ tôi bệnh nên cần tiền mua thuốc… Giờ còn thêm cậu bé vừa mới vào cấp cứu chắc cũng tốn không ít tiền đây. Cậu ta lang thang, làm gì có người thân. Tôi cầm xe lấy tạm chút tiền xoay xở rồi tính sau vậy.
Cô gái trẻ chăm chú nhìn người đàn ông mới quen. Chỉ vì muốn giúp đỡ cho một người xa lạ, mà có thể sẵn sàng đem cầm cố cả đến cái phương tiện duy nhất có thể mưu sinh để nuôi sống gia đình sao? Việc gì anh ta phải làm thế? Đưa nạn nhân đến bệnh viện đã là tốt lắm rồi, giờ lại còn muốn trả viện phí cho một người xa lạ. Đời này còn có người như vậy sao?
- Cũng đành vậy thôi cô ạ! Chắc không còn cách nào khác. Giúp người thì giúp cho trót vậy. Cùng là những người nghèo khổ cả thôi mà…- Anh nói, ra chiều tư lự.
- Cầm xe thì dễ rồi, nhưng sau đó thì sao? Anh lấy gì chuộc lại? Hay ta thử tìm cách khác…
Hai người cùng im lặng. Mấy con muỗi thấy có được dịp may nên đến chào đón các vị khách mới đến. Cô gái cũng đăm chiêu. Cô cũng là người nghèo mà, vì miếng cơm manh áo, chứ bản thân cô cũng đâu có muốn làm cái nghề tiếp viên ấy đâu. Cô cũng phải sống tha phương, phải rời xa vùng quê êm đềm của tuổi thơ với những ngày lễ Chúa nhật nghiêm trang, xa đám bạn để lưu lạc vào chốn phố thị xô bồ này. Cô như đang nghe thấy một cái gì đó vang lên, từ nơi sâu thẳm cõi lòng mình…
- Sao không nhờ người giúp thử? Mấy người kia kìa… Biết đâu họ có cách giúp cho thì sao?
Anh xe ôm nhìn nhóm ba người phụ nữ mới đến, giọng như thể vui mừng:
- Ồ, may quá! Nhìn trang phục là biết ngay các dì phước rồi. Có thể các có cách gì chăng…
Cô gái trẻ nhìn theo người đàn ông đang đi nhanh đến đó. Các dì có một phòng riêng để xem mạch và bốc thuốc miễn phí cho người nghèo trong bệnh viện này. Hồng, tên cô gái trẻ, làm sao không nhận ra các dì được chứ? Dù đã lâu không đến với Chúa, cũng không đi lễ nhà thờ, nhưng những chiếc khăn lúp, nụ cười hiền lành của các soeur ở xứ đạo quê nhà dường như đã trở thành những ký ức không thể nào phai nhạt. Thỉnh thoảng, ở chốn Sài thành hoa lệ này, Hồng cũng thấy thấp thoáng những tấm áo trắng thiên thần đó những lúc đi ngang qua ngôi thánh đường ở gần khu xóm trọ. Hôm nay, trong tình cảnh này, những gợi nhớ đó lại trở nên gần hơn, mạnh mẽ hơn. Nó cứ như những đợt sóng nhỏ từ ngoài khơi xa, lan vào bờ cát đầy sỏi đá của tâm hồn cô, rồi vỡ vụn ra, dâng lên, cao hơn, xa hơn vào sâu thẳm con tim vốn đã nguội lạnh sau bao năm vắng Chúa. Nó cứ như một dòng nước mát chảy tràn, rồi thấm sâu vào tận những ngõ ngách của con suối tâm hồn bị sa mạc hoá lâu ngày, đã khô cháy nứt nẻ. Cô thấy nhớ da diết giáo xứ quê hương, nhớ những lời ca, tiếng hát bổng trầm của thánh lễ ngày Chúa nhật, nhớ đến vị cha xứ già gương mẫu năm xưa không biết năm nay vẫn còn hay đã mất…
- Tốt quá rồi! Vậy là không phải cầm cái xe nữa. Tạ ơn Chúa!- Anh xe ôm đã quay trở lại với nụ cười rạng rỡ trên khuôn mặt lam lũ phong trần.
- Không phải tới tiệm cầm đồ nữa hả? Các dì nói sao?- Hồng cũng cảm thấy vui lây với người bạn đồng hành.
- Đúng rồi! Các dì nói họ có quỹ chung do một số mạnh thường quân tài trợ giúp người nghèo để phát thuốc chữa bệnh. Các dì dùng quỹ đó để giúp đỡ và chăm sóc cho cậu bé đến khi ra viện. Sau đó, có thể sẽ tìm cách để gởi cậu vào một mái ấm tình thương của các thầy dòng, để cậu không phải đi lang thang mà còn được học một nghề nào đó phù hợp. Tôi không cần phải cầm đồ, vẫn có thể đón khách mỗi ngày và đưa cô về nhà bình an.- Anh bật cười vui vẻ.
Hồng cũng bật cười. Đúng là chuyện đời. Làm người tốt cũng phải có lúc được báo đáp chứ!
- Chúng ta về thôi! Phần còn lại, cứ để Chúa và các dì lo hết. Tôi sẽ giải thoát cho cô về nhà an giấc… ban mai!
- Được đấy! Tôi cũng sẽ giải thoát cho anh món nợ, không phải đền bộ đồ mới nhé. Coi như giúp cho người tốt một lần. Chúng ta không ai nợ ai…
- Nhưng chưa đến lúc phải đường ai nấy đi nhé! Tôi còn đưa cô về nhà nữa mà…
Phúc, anh xe ôm tốt bụng, cười thật tươi. Anh cảm thấy cô khách hàng của mình cũng không đến mức chua chát, khó gần như hồi đêm…
Hồng cảm thấy cõi lòng bình yên đến lạ lùng khi ngồi sau xe của Phúc sáng nay. Cô thấy lòng khoan khoái như người vừa mới ra khỏi mê cung, hay người tìm được lối về sau những ngày lạc đường chốn rừng thiêng nước độc. Cô thì thầm hát một bài mà cô tưởng chừng mình đã quên từ lâu… “Bao năm trôi qua, hồn con lạc bước đi xa. Quên bao ơn Cha, trầm kha bể đắm bao la… Nay con ăn năn, hồi tâm thống hối bao lỗi lầm, đền bù bất xứng bao năm, quyết tâm trở về Cha lành…” (Hãy trở về - Ngọc Kôn).
Cô sẽ về nhà, ngủ một giấc cho lại sức, và sau đó sẽ suy nghĩ rồi tìm một công việc khác phù hợp hơn. Cô sẽ không phải đi sớm về khuya, không cần phải gồng mình uống cạn những cốc bia để chiều lòng người khác. Có thể chiều nay cô sẽ đi lễ nhà thờ…
Đường phố đã dần trở nên tấp nập hơn và vầng hồng bắt đầu xuất hiện, chiếu những tia nắng đầu tiên báo hiệu một ngày Chúa Nhật an bình…


HỌ ĐÃ DẠY TÔI

Violet  (Ở đâu?)


Khi mặt trời chuẩn bị ló dạng, chiếc xe Hyundai dời bánh khỏi thành phố ồn ào đưa tôi về với vùng đất Gia Kiệm (Đồng Nai). Sau hơn một giờ đồng hồ, đi qua những cánh đồng dừa nước ngút ngàn dọc quốc lộ 20, tôi đã dừng chân tại Trung tâm Bảo trợ Xã hội Nhân ái Bạch Lâm. Nơi đây có biết bao mảnh đời: già, trẻ, bệnh tật, cô đơn… đang được chắp vá, bù đắp bởi những tấm lòng nhân ái, quảng đại, hy sinh của quý Thầy Dòng Anh Em Bác Ái, của quý ân nhân xa gần, và của những tình nguyện viên với những nghĩa cử thầm lặng mà cao đẹp biết bao!
Nhóm tông đồ chúng tôi viếng Chúa nơi một nhà nguyện đơn sơ của Trung tâm, rồi được Thầy Tâm, một tu huynh của Dòng Anh Em Bác Ái đang phục vụ tại đây, tiếp đón và giới thiệu. Thầy Tâm cho biết: Hiện tại Trung tâm có 160 người đang được nuôi dưỡng và chăm sóc, gồm người già neo đơn, người tâm thần và trẻ mồ côi. Khi chúng tôi đến, những căn phòng với không gian khá rộng rãi thoáng mát đang được mọi người lau chùi, dọn vệ sinh. Nhìn gương mặt của những con người có hoàn cảnh đặc biệt nơi đây, tôi chợt nhớ đến Lời Chúa trong Mt 23,8 rằng: “Anh em chỉ có một Thầy, còn tất cả anh em đều là anh em với nhau”.




Chính trong Đức Kitô, tình thân thương của mọi người được gắn kết qua những tiếp xúc, trò chuyện, lắng nghe, chia sẻ... Chúng tôi đóng góp vài tiết mục văn nghệ “bỏ túi”, xen với những bài hát, bài thơ của các bác, các cô chú, anh chị cùng các em nhỏ nơi đây. Khu hành lang bỗng rộn ràng như trên một sân khấu, các em nhỏ vô tư quấn quýt chúng tôi, những người già niềm nở bắt tay, vừa ngọng nghịu vừa lắp bắp cởi mở những câu chuyện về chính mình như được gặp lại người thân lâu ngày xa cách.
Chúng tôi phụ các Thầy trong giờ cơm trưa của Trung tâm. Mọi người đều trật tự xếp hàng nhận phần cơm của mình, không ồn ào, không chen lấn. Người khỏe phụ người yếu, người lớn giúp trẻ nhỏ… Các Thầy tâm tình: Để ổn định nề nếp và gây dựng được sự gắn bó như vậy phải mất một thời gian khá dài, các Thầy và từng thiện nguyện viên phải học cách kiên nhẫn và hiểu tâm lý của từng đối tượng, để có cách bố trí xếp sắp phù hợp trong mọi sinh hoạt, lao động.



Chúng tôi thực sự xúc động khi nhìn thấy những ánh mắt, những đôi bàn tay thô nhám, run run như thể lâu lắm rồi chưa có ai đụng chạm. Đằng sau mỗi ánh mắt ấy có thể là cả một quá khứ không bình lặng; có thể là một nỗi cô đơn dài dằng dặc; có thể là những nỗi đau, sự tổn thương nào đó mà vô tình hay cố ý cuộc đời đã giáng xuống nơi những phận người này. Nhưng vẫn còn đó biết bao tấm lòng quảng đại dấn thân phục vụ, đang gieo vãi trong tâm hồn những người anh chị em này một niềm hy vọng chứa chan tình yêu thương. Đó là các Thầy chọn bậc sống sư huynh, để cả đời dấn thân phục vụ Chúa trong chính những thân phận bị gạt ra bên lề xã hội như vậy. Đó là bao bạn trẻ tự nguyện mỗi tuần đến tắm giặt cho những người già liệt giường. Đó là một chị người dân tộc chuyên lo chuyện cơm nước trong Trung tâm, mà các em nhỏ hay gọi chị cách thân thương là “mẹ”, người mẹ trong trí tưởng tượng của các em. Chúng tôi đã gặp, đã nghe và thấy tất cả. Như một sứ điệp mà Chúa gửi để học hỏi, học nữa, học mãi bài học yêu thương và sẻ chia.



Đức Giêsu vẫn đang đau nỗi đau của nhân loại. Ngài không vô hình nhưng hữu hình nơi những người mà Ngài dạy chúng tôi phải gọi họ, phải sống và đối xử với họ, như anh chị em chứ không phải là “kẻ nợ”, hay “gánh nặng” cho xã hội (điều mà người ta thường nghĩ về những bệnh nhân tâm thần, những người vô gia cư hay người già). Họ đã dạy tôi nhiều hơn cả những người thầy. Những gì mà tôi đã nhận được từ bao con người bất hạnh như Bà Cúc, như Bác Quang, anh Trọng, bé Sún… luôn là cách Chúa huấn luyện trái tim tôi trong cái nhìn đức tin đầy huyền nhiệm.