NGÀY VỀ

Phaolô Trần Văn Sơn (Phú Thọ)

Kết quả hình ảnh cho jesus 

Sau 5 năm xa quê, trong lòng anh lúc nào cũng mang nặng nỗi nhớ bố mẹ, nhớ những bữa cơm gia đình… Hôm nay trở về, anh mang theo bao nỗi niềm khắc khoải, sao đường về lại xa đến vậy? Bước đi trên con đê làng, đôi chân anh có lúc nhanh thoăn thoắt nhưng có lúc chẳng hề muốn bước, bởi biết bao suy nghĩ ùa về trong tâm trí anh: Không biết bố anh có đón nhận anh không? Mọi người xung quanh sẽ nhìn anh như thế nào?... Anh đưa mắt nhìn con sông đỏ nặng phù sa vẫn lặng lẽ trôi, mang theo bao nỗi buồn vui của kiếp người.
Thế là sắp được trở về ngôi nhà thân thương bao năm xa cách. Mọi cảnh vật chẳng thay đổi là bao, ngôi nhà thờ vẫn mang nét đơn sơ, cổ kính thưở ấy. Chính nơi đó, anh cảm nhận được hương vị của sự bình an, của sự thánh thiện. Anh đứng lặng nhìn qua những song cửa gỗ, sâu vào bên trong, anh như bị cuốn hút bởi những tiếng gọi thì thầm. Là tiếng Chúa sao?
Ngước mắt nhìn lên thánh giá Chúa, Ngài vẫn giang tay chờ đón, như muốn ôm anh vào lòng. Như người cha ôm con nâng đỡ, ủi an, vỗ về khi con vấp ngã. Anh vẫn lặng thinh, ngắm nhìn Chúa đang giang tay trên Thập Tự và hồi tưởng lại quá khứ…
* * *
Năm ấy, anh bỏ nhà đi chỉ vì hiềm khích với bố. Bố anh, ông ấy là một người rất gia trưởng, khó tính. Gọi là “đạo gốc” nhưng chẳng sống đạo bao giờ, những việc đơn giản là làm dấu thánh giá, cái nghĩa cử cao đẹp ấy chẳng biết đã bị ông lãng quên từ bao giờ? Chắc có thể là sau gần 20 năm lam lũ vất vả vào Nam ra Bắc kiếm sống, vì thế mà đời sống đạo của ông đã bị “bụi trần” phủ lấp!
Bố anh trở về sau những ngày vất vả ngược xuôi, tưởng chừng cuộc sống sẽ êm đềm, nhưng rồi mọi thứ đã đổi thay. Ông chẳng muốn mẹ con anh đi lễ, hay đi nhà thờ đọc kinh nữa, vả lại ông cũng không bao giờ muốn ai nhắc đến Chúa trước mặt mình! Có ai khuyên ông đi lễ, thì ông nói: “Đạo tại tâm, việc gì phải đi đâu!”
Cứ mỗi khi mẹ nhắc nhở các con phải sống đạo cho tốt, đêm ngày phải phó thác cậy trông vào Chúa, vào Đức Mẹ, xin Ngài ban ơn nâng đỡ cho gia đình mình, cho công việc học tập nữa, thì bố thường khó chịu, quát tháo khi nghe những lời ấy của mẹ: “Chúa nào ban cho chúng mày… Không làm lấy gì đổ vào mồm”. Mẹ anh biết ý chẳng muốn nói lại, im cho xong chuyện, nói ra thì lại thêm cãi nhau. Có những lúc mẹ con anh đi lễ, ông lại có những câu nói đay nghiệt: “Mẹ chúng mày! Đi cho lắm vào, ngày nào cũng đâm mặt đi, nhà người ta giàu có thì người ta mới đi, nhà mình nghèo thì đâm mặt đi làm gì!”…
Nỗi buồn lúc nào cũng hằn sâu trên gương mặt mẹ, mẹ anh chỉ biết cầu xin, dâng lên Chúa người chồng cứng đầu, cứng cổ này. Lắm lúc mẹ cũng phải nói lại vài lời cho ông ấy hiểu: “Không có Chúa ban ơn thì lấy đâu ra sức khỏe mà làm việc, mà có công ăn việc làm ổn định?”… Nhiều lúc quá buồn, anh chỉ muốn xin Chúa một điều: “Lạy Chúa, xin Chúa cho bố con ‘ngã ngựa’ một lần như ông Phaolô trên đường đi Đa-mát. Để bố con quay về nẻo chính đường ngay”…
Ngày giáo họ anh chầu Thánh Thể thay giáo phận, mọi người ai cũng vui mừng háo hức đi chầu Chúa. Anh cũng muốn đi vì đã bao lâu anh không được tham dự một giờ chầu Thánh Thể vì sự cấm đoán của bố, anh “thèm”, anh “khao khát”. Anh ngỏ ý xin bố nhưng ông ấy không đồng ý. Nhưng rồi anh đã bỏ mặc sự ngăn cấm ấy. Tan chầu trở về, một sự giận dữ hiện lên trên khuôn mặt bố:
- Ai cho mày đi lễ? Tao bảo mày ở nhà cơ mà! Bố mày làm bục mặt ra mà mày còn đâm mặt đi à!
Sau những lời cáu bẳn, với tính khí tự nhiên bố anh lại có những hành động thô tục. Nỗi căm giận, uất ức bỗng dâng trào bên trong con người anh như giọt nước tràn ly. Anh muốn nói ra hết những tâm tư suốt những ngày bị dồn nén:
- Bố không đi lễ thì để mẹ con con đi, bố đừng sống ích kỉ như thế… Bố nên nhớ mình là người có đạo đấy!
Những đường gân trên khuôn mặt bố nổi hằn lên trong sự tức giận:
- Đồ mất dạy! Mày dám lên mặt dạy đời tao à? Tao là bố mày hay mày là bố tao hả? Biến … Cút khỏi nhà tao… Tao không có đứa con như mày.
Tại sao trong giây phút này anh lại căm giận ông đến như vậy, anh nghĩ anh không thể sống trong gia đình có một người cha như thế. Anh biết anh ra đi mẹ anh sẽ vất vả, nhưng anh nghĩ dù sao đó cũng là sự chọn lựa của riêng anh.
* * *
Những ánh nắng le lói, xuyên qua những kẽ lá của những hàng cây ven đường, Sài Gòn rộng lớn mĩ lệ là thế! Những tòa nhà san sát cao ngất ngưởng, dòng người, xe cộ cứ nối đuôi nhau trên những con phố…
18 tuổi, lần đầu tiên xa nhà, anh đặt những bước chân ngập ngừng, bước từng bước lạ nơi đất khách quê người. Trong cái nhìn mới, anh đã ấn tượng với cuộc sống nơi thành phố nhộn nhịp và tấp nập này. Anh biết mình phải tự lập, phải đi làm để kiếm sống, và anh cũng nhanh chóng tìm được việc làm. Công việc của anh lúc thì phục vụ quán ăn, lúc thì đi bán hàng hay làm cửu vạn… Cuộc sống nơi phồn hoa xô bồ, dần biến anh trở thành con người khác. Anh nghĩ cuộc sống như thế sẽ làm anh quên đi hết mọi chuyện, nhưng không, cuộc sống ấy càng làm anh mệt mỏi, chán ngán. Biết bao lần, nỗi nhớ nhà ùa về khi màn đêm buông xuống. Anh biết chính cái tôi, cái sĩ diện, cái nông nổi bồng bột của tuổi trẻ nó đã đưa anh đến đây.
Những ngày xa nhà, anh hứa với lòng mình sẽ cố gắng kinh nguyện, đi lễ hằng ngày. Nhưng điều ấy chỉ như ánh nến vừa thắp lên đã bị gió làm vụt tắt. Mọi cám dỗ như mây mù giăng lối, bao quanh cuộc đời anh. Ngày đi làm kiếm tiền, đêm lại đi nhậu nhẹt với bạn bè, hay cùng bạn bè đua xe thâu đêm cho quên đi những đắng cay, uất hận mà anh phải chịu. Anh lao vào đời bằng những sự tình cờ theo lời mời gọi của chúng bạn. Chúa đâu còn trong tâm trí anh nữa!
Sau cái đêm ngộ độc rượu suýt chết, anh mới nhận ra rằng, chỉ trong khoảng thời gian ngắn ngủi như vậy anh đã không còn nhận ra mình nữa. Thế anh mới hiểu ra và cảm thông cho bố suốt mấy mươi năm xa nhà. Anh chỉ muốn nói lời xin lỗi bố anh ngay lúc này. Ngước lên nhìn thánh giá Chúa nơi căn phòng trọ chật hẹp, anh sực tỉnh là đã bao lâu mình chưa đi lễ, chưa xưng tội, đã bao tháng ngày mình bỏ kinh nguyện sáng tối… “Lạy Chúa lòng lành vô cùng… Mình còn là người Công giáo nữa không? Lạy Chúa, con xin lỗi, sao con lại bỏ Chúa một cách phũ phàng đến như vậy... Chẳng lẽ tiền tài, thú vui nó đã chôn vùi con người đạo đức của con ngày xưa rồi sao?”… Những dòng nước mắt đang lăn dài trên khóe mắt, tâm trí anh dần được hé mở, anh cảm thấy nơi con tim có gì đau nhói.
Đã lâu, anh không còn nghe tiếng chuông nhà thờ giữa lòng thành phố, nhưng hôm nay tiếng chuông ấy vang lên như xé tan cõi lòng anh. “Thiên thần” và “ác quỷ” đang đấu tranh dữ dội trong tâm hồn anh. Anh chợt nhớ lại câu nói mà cha xứ anh đã nói với anh, khi anh còn là tu sinh: “Hãy nhìn lên đừng nhìn xuống, trên kia mới có vinh quang vĩnh cửu, dưới này chỉ toàn phù vân”.
Anh cảm nhận thánh lễ hôm nay khác hơn những thánh lễ khác. Anh đến sớm hơn, quỳ thật lâu trước nhan thánh Chúa để “nhìn lại mình”. Anh muốn được “gột rửa” lại tấm áo cuộc đời sau bao ngày sa ngã. Trong thánh lễ, cha chủ tế mời gọi mọi người suy nghĩ về hình ảnh người con thứ và người cha trong dụ ngôn người cha nhân hậu. Hai hình ảnh ấy đã xoáy sâu vào tâm trí anh làm toàn thân anh bủn rủn. Anh suy ngẫm về những lời cha nói: “Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót, luôn yêu thương con người ngay khi còn là thù địch với Ngài”. Hình ảnh người bố hiện lên trong tâm thức, ngay lúc này anh muốn cất bước trở về bên người bố thân yêu.
Thánh lễ kết thúc, anh nhanh chân tới gặp vị linh mục để chia sẻ về những điều anh đang gặp phải trong suốt năm tháng qua. Sau cuộc gặp gỡ, anh cảm thấy bình an nơi tâm hồn với lời khuyên: “Con hãy trở về, vì cha con vẫn chờ con. Đừng cứng đầu nữa… Mà cha thấy nơi con có nét gì đó ‘chân tu’ lắm!”. Những lời nói ấy như đập mạnh vào cánh cửa tâm hồn, làm bừng dậy cái ước mơ trở thành linh mục hồi nhỏ, với mong ước đem nhiều người như bố trở về với Chúa. Những ánh sao trên bầu trời đêm nay bỗng lung linh huyền diệu như đang soi dẫn cuộc đời anh.
* * *
Những hàng cây bằng lăng bên hông nhà thờ vẫn lặng yên, đâu đó chỉ có những tiếng chim mẹ gọi con da diết. Trong sự tĩnh lặng chỉ mình anh với Chúa, anh gục đầu, nước mắt lại ứa ra. Tâm trí anh đang rối bời: Anh không biết phải đối diện với bố ra sao? Anh không biết mình còn đủ can đảm để mở lời, không biết bố có đón nhận anh không ?… Tiếng sụt sịt của ai đó làm anh giật mình. Ngước nhìn lên, anh thấy phía hàng ghế đầu, ngay trước tượng Lòng Chúa Thương Xót, một người đàn ông tóc đã bạc đang quỳ gối, hai tay ôm mặt thì thào trong nước mắt: “Lạy Chúa, xin thương xót con, xin cho nó trở về với con”… Anh nhướn mắt, cố nhìn bóng người đó. Có lẽ người đàn ông không để ý đến anh đang ngồi nép mình đằng sau chiếc cột nhà thờ. Càng cố nhìn, anh càng nhận ra dáng dấp kia quen thuộc… Anh chợt sững người: Là bố anh! Anh không thể tin vào mắt mình nữa. Anh như muốn đưa tay ra để chạy đến ôm lấy bố nhưng không dám.
Những cơn mưa bất chợt đến, làm cho không gian trở nên tù túng. Những lời rì rầm trong nước mắt của bố khiến lòng anh rân rân. Anh nhẹ đứng dậy, rón rén bước đến sau lưng ông, lấy hết can đảm, khẽ cất lên một tiếng: “Bố!”… Người cha giật mình quay lại, ông sững người khi thấy đó là anh, bất giác ông thốt lên: “Nam… Nam… Con đã về rồi sao?” . Nước mắt ông ứa ra, ông vòng tay ôm lấy anh. Anh dường như chết lặng… Những dòng lệ tuôn rơi hòa với dòng chảy của đất trời đã xóa tan đi những hờn giận của lòng người. Nam quỳ thụp xuống, nghẹn ngào trong tiếng nấc:
- Bố ơi! Con xin lỗi… Con đã sai…
- Không ! Bố xin lỗi vì bố cũng sai… Chỉ vì bố… bố… không hiểu về Chúa… Nhưng từ ngày con đi bố đã hiểu…
Cơn mưa nay đã ngớt, nhường chỗ cho những ánh nắng vàng tươi mới. Những chú chim lại vươn mình bay trên khoảng trời xanh bao la.


CUỘC ĐỜI NÀY ĐÂU ĐÃ HẾT NHỮNG ĐIỀU TỐT ĐẸP

Têrêxa Quỳnh Dao (Hội Dòng MTG Huế)

Kết quả hình ảnh cho cuộc sống tươi đẹp 

Reng reng, reng reng...
Nghe tiếng chuông báo nghỉ giữa giờ, động cơ máy dệt nhỏ dần rồi im bặt, thay vào đó là tiếng người lao xao. Vác trên vai cuộn vải 50kg, Lép cũng thả xuống khi nghe hiệu lệnh, và đi đến gốc cây quen thuộc bên sông. Ở đó, những chiếc thuyền chở hàng cũng vừa rời bến.
Bên kia sông có nhóm trẻ con đang tắm. Ngụp lặn, quẫy nước… Có tiếng gọi, chúng lên bờ nhưng cũng vội khoát văng lên nhau những vạt nước rồi ù té chạy. Bóng người đã khuất dạng mà tiếng cười vẫn còn vọng lại, dội xuống dòng sông, chạm đến kí ức của Lép, của một đứa trẻ mới bước vào tuổi trung học hôm nào…
* * *
Cúc cu, cúc cu...
“Lạ thật đấy! Đã hẹn nhau đi câu cá, vậy mà tới giờ vẫn không thấy thằng Phát đâu, hay tại ba nó không cho đi?”- Lép nghĩ.
Cúc cu, cúc cu...
“Lép phải không? Vào đây đi em!”- Tiếng lạ từ nhà vọng ra.
“Ai thế nhỉ?”- Lép chui qua hàng rào rồi vào nhà. Gọi là hàng rào vậy thôi, chứ tụi thằng Lép vẫn chui qua chui lại hoài; chơi trốn tìm, bắt bươm bướm quanh cái hàng rào được tạo thành từ những cây dâm bụt. Mùa hoa nở lại thêm cái thú vui hái hoa, giơ lên miệng và hút lấy chút mật ngọt ngọt thanh thanh.
Phát vẫy Lép lại gần:
- Chị tao đi tu, về nghỉ hè hai tuần. Chị bắt tao học xong mới được đi chơi.- Phát thì thầm.
- Chào Lép!- Chị bước ra và đưa cho Lép cuốn tập cùng cây bút mới toanh- Nghe nói năm nay em lên lớp 6, học một chút rồi hai đứa đi chơi nghe…
Nhẹ nhàng, êm ái đến đau lòng! Vậy mà một đứa nhác học như Lép không hề muốn kháng cự, nó ngồi hiền và khẽ đáp: “Dạ”. Rồi cũng cung giọng nhẹ êm ấy đưa tất cả những đứa trẻ trong xóm thành một lớp học có một không hai: 15 học sinh từ mẫu giáo, lớp 1 đến lớp 6; với đầy đủ những xếp loại giỏi, khá, và trung bình. Lép vẫn luôn tự hào về thành tích nhiều năm liền là học sinh “tốt bụng” (tb- tức trung bình)!
Cả xóm đều vui vì lũ trẻ giờ đây được qui tụ về một nơi, sạch sẽ, và giảm bớt sự la hét của cả người lớn lẫn trẻ con. Ba mẹ Phát người vui người buồn. Ba thì: “Con về có hai tuần mà làm gì vậy con? Có được ích gì đâu? Quậy quá là ba đuổi hết à nghe!”. Mẹ thì bữa trái ổi, lúc nồi chè đậu xanh mát ngọt. Mẹ còn tuyên bố sẽ cho lớp học hai chú vịt để chị làm “bữa tổng kết”.
Chị thấy vui vì không phải mình truyền đạt kiến thức, nhưng là sẻ chia một chút gì để các em có thể tự do vẽ lên những ước mơ, một chút gì để có thể tự tin đứng trước đám đông giới thiệu tên mình, quê mình, đất nước mình; để thấy rằng Tiếng Anh là môn học không quá khó như bao đứa trẻ cùng thời chị vẫn hằng sợ hãi... Cũng chỉ đơn giản là góp thêm nhánh củi cho “ánh lửa tương lai” được khơi lên nơi làng quê thân yêu này.
Lép thấy vui vì từ nhỏ đến giờ chẳng ai khích lệ nó như chị, nó có thể thỏa sức ghi ước mơ trở thành thầy giáo mà không sợ bị cười chê. Và nó sẽ không ngờ rằng đến một lúc nào đó trong đời, nó sẽ nhớ đến lớp học ấy, và nghiệm ra rằng: Có một ai lắng nghe mình trong cuộc đời này thật tốt biết bao!
Cứ thế, mỗi lần chị nghỉ Hè, nghỉ Tết, lớp học tự động qui tụ. Mấy đứa trẻ ngóng chị về vì chị luôn có những thứ mới lạ từ thành phố: Hình dán mặt cười khích lệ, chuỗi hạt đeo tay có màu mình yêu thích được “đặt hàng” trước, những cây bút bi, bút chì ngộ nghĩnh...
Mẹ của chị nuôi thêm con vịt, con gà để “xem như mẹ ủng hộ lớp học”. Ba thì cười trừ: “Chắc ba phải xin vào học để được mẹ chăm sóc như thế!”
Lép và em gái- đứa em gái đã cặp tập vở vào nách sang nhà chị mà hỏi: “Chị có dạy mẫu giáo không?”- luôn đứng ở cửa mỗi khi trời chập choạng tối, để khi nghe chị gọi: “Lép ơi, Tuyền ơi… đi lễ”, là cả hai anh em chạy ào ra.
Đường đến nhà thờ luôn luôn vui vì ở đó có người hỏi Lép: “Em có muốn đi tu không?... Hôm nay có gì vui buồn kể chị nghe với?”. Lép kể cho chị nghe hôm nay mình bắt được bao nhiêu cá, bán được thế nào; kể rằng anh Hai đã nghỉ học để phụ mẹ làm việc nhà, rằng ba mẹ cãi nhau... Lép có thể kể mà không hề sợ, dẫu nó chẳng biết mình sợ điều gì.
Rồi một năm chị không về. Phát nói chị vào “nhà tập” gì gì đó.
Đường đến nhà thờ giờ chỉ có hai anh em. Lép muốn khoe với chị là sẽ thi vào cấp 3 trường X, trường này chỉ học sinh khá trở lên mới dám thi.
Đường đến nhà thờ không có tiếng vọng lại nhưng Lép thấy ấm áp vô cùng. Lép muốn trả lời “có” cho câu hỏi của chị hôm nào.
Cũng năm đó mẹ Lép rời bỏ làng lên phố làm ăn, mang theo mọi đồ dùng trong nhà. Ngôi nhà nhỏ lại thêm trống vắng. Bốn anh em Lép lóng nga lóng ngóng, đứa em gái khóc khan đòi mẹ.
Ba Lép đi làm về. Lặng người. Rồi cả mấy cha con trở về nhà nội, nơi đó giờ ông bà đã ngoài tám mươi. Nếu ngày chuyển về cách đây hơn 4 năm ngập tràn niềm vui và biết bao dự định của ba mẹ, thì ngày hôm nay ra đi, Lép sợ không có ngày về.
Đường đến nhà thờ năm đó vắng bóng người…
Ngày Lép đi tìm mẹ vì đói, mẹ cho nó mười ngàn. Lép mua cho em gái một chiếc bánh, Lép một chiếc. Chẳng hiểu sao ba Lép biết chuyện, đánh một trận nhừ tử: “Mày mà gặp mẹ mày một lần nữa thì cút!”
Phát đến thăm và mang theo lời nhắn: “Chị đang đi giúp xứ, sẽ có cách giúp Lép. Đừng bỏ học”. Sẽ không kịp, Lép biết như thế nhưng vẫn thấy ấm áp. Cuối năm ấy ba và mấy anh em Lép vào Nam bốc vác, chỉ em gái ở lại với ông bà.
* * *
- Lép à, vào nhà đi em. Chị để dành cho em cái này nè…- Chị vừa nói vừa mang ra hai chén gì đó.
- Em nghe nói chị đã khấn dòng… Mà sao chị biết em sẽ đến?- Lép đáp lại.
- Đơn giản là chị biết thôi...- Chị nháy mắt- Ăn đi em!
- Thạch rau câu khoai môn, em thích món này lắm đó. Chị mang từ thành phố về phải không chị?
- Món thành phố đãi người thành phố.
Thế rồi hai chị em cứ nói hết chuyện này sang chuyện khác, cứ như chưa hề có chuyện gì xảy ra.
Đường đến nhà thờ hôm ấy lại thấy bóng người.
- Nhà nội nhà ngoại em bây giờ ai thấy “bà ấy” cũng đánh đuổi. “Bà ấy” cũng tìm gặp em nhưng bây giờ em khôn rồi, không đòi tiền em được đâu!- Vừa đi Lép vừa kể.
Với giọng nhẹ êm hôm nào, chị nói: “Nếu là em, chị chẳng biết phải làm thế nào. Dù sao thì đó cũng là người đã sinh ra em...”
* * *
Reng reng, reng reng...
Tiếng chuông báo hiệu hết giờ nghỉ giải lao.
Lép đi lên, bốc cuộn vải và tiếp tục bước đi…
“Chị biết không, những ngày đầu em đau ê ẩm cả người, những tưởng mình chẳng thể tiếp tục được. Vậy mà đến nay đã hai năm rồi, giờ thì em bốc vải nhẹ nhàng lắm.
Em muốn khoe với chị là em đã bắt đầu đi học ở lớp bổ túc ban đêm, nơi chị đã giới thiệu cho em. Và trong lời cầu nguyện của em bây giờ, đã có hình ảnh của mẹ...”
Câu nói ấy và lời nguyện ở hai khoảng không gian khác nhau cùng bay lên trong khói chiều.
Cuộc đời này đâu đã hết những điều tốt đẹp.


NHÀ HOA HỒNG

Nguyễn Thị Bích Ái (Quảng Ngãi)

 Kết quả hình ảnh cho ROSE HOUSE

Một ngôi nhà đầy hoa hồng, hoa hồng đỏ leo trên giàn, rosa villosa hai bên lối đi, trước cổng là hồng cổ. Đó là giấc mơ của Lãng về tổ ấm, cùng anh, người đàn ông nhã nhặn và giỏi giang. Mọi thứ điều tuyệt vời để Lãng trở thành người phụ nữ hiện đại và hoàn hảo. Ngày đám cưới. Tuần trăng mật. Và đúng một ngôi nhà hoa hồng. Mọi người luôn được thấy nụ cười tình tứ và ánh mắt đắm say của nàng với chồng trong những bữa tiệc sang trọng, tại Annecy hay một nơi nào đó ở Pháp, Đức. Các cô bạn ghen tị. Những người xóm giềng ghen tị. Đồng nghiệp ghen tị.
"Tôi là cô gái hoàn hảo!"- Lãng phấn khích trước những sự thèm khát.
Nàng tập thói quen ăn sáng tại nhà cùng anh, trong căn bếp đầy hoa hồng. Nàng cùng anh thưởng thức trà-bánh mỗi chiều giữa hương hoa. Mỗi tối, anh kể cho cô nghe những câu chuyện thú vị và hai đứa cùng đi ngủ trong căn phòng màu xanh êm dịu. Nàng nghĩ như thế. Đó là tất cả tại thời điểm một năm về trước...
Màn đêm giăng kín ngôi nhà. Thứ ánh sáng êm ái trên chiếc đèn chùm chỉ vừa đủ soi mờ bậc thềm thứ nhất. Một tay xách vali, một tay run rẩy trong túi áo bởi khí trời tháng Mười Một, Lãng vội vàng đi khi mặt trời vẫn còn ngái ngủ. Cứ thế, một tuần có khi một tháng, nàng đi với chiếc vali nặng trịch. Những chuyến công tác ngắn ngày, dài ngày, trong nước, ngoài nước của Lãng ngày một dài thêm, thường xuyên hơn và thời gian tại nhà hoa hồng cùng anh cũng trở nên hiếm hoi. Anh cần cô ở nhà, để giữ ấm ngôi nhà, để hai người cùng nấu những bữa cơm, nhưng:
- Em không muốn bó buộc mình trong bếp. Anh nên hiểu điều đó!
Đó là tuyên ngôn của Lãng mỗi khi anh có ý định khuyên cô điều gì.
- Anh hiểu… Anh cũng có công việc của mình, nhưng anh sẵn sàng chia sẻ việc nội trợ với em.
- Được rồi… Em sẽ thu xếp.
- Em cần phải sinh con. Chúng ta cần có một em bé.
- Chưa phải lúc này. Em sẽ suy nghĩ về công việc. Nhưng con cái chưa phải là vấn đề lúc này!
- Tại sao? Chúng ta dư thừa điều kiện. Em không nghĩ thế sao?
- Nếu em có thai bây giờ thì việc thăng tiến của em sẽ gặp khó khăn…
- Nhưng em không nghĩ là chúng ta cần một sự thấu hiểu, quan tâm hơn sao?
- Vậy, xin hãy thấu hiểu em! Em là vợ anh. Anh sẽ hiểu em, đúng không?
...
Những cuộc nói chuyện giữa Lãng và anh trên bàn ăn luôn kết thức trong sự thắng thế của cô. Còn anh, ánh mắt ngày một sâu. Căn bếp lạnh dần, tủ lạnh thì luôn đầy. Cô mua đủ thứ thịt, trứng, sữa, hoa quả hảo hạng và cho đầy vào đó. Nhưng anh cũng chẳng mấy khi đụng đến. Nàng vẫn yêu chồng nàng nhưng nàng không thể vì tình yêu mà đánh mất tất cả những gì mà tuổi trẻ đã sống vì nó. Từ ngày mai, Lãng sẽ thuê cô giúp việc. Cô yên tâm với tất cả quyết định của mình. Những bữa ăn của anh sẽ đủ đầy, nhà cửa sẽ lại sạch sẽ còn cô thì vẫn đem lại cho mình giá trị và địa vị. Anh chung tình. Cô chung tình. Nhà hoa hồng. Thế là đủ.
Trên blog, hình nàng và anh, ở mọi nơi, đầy tình cảm. Mọi người, như thường lệ, trầm trồ và ghen tị. Lượt tương tác ngày một tăng, Lãng thấy thế nên cô càng ý thức việc giữ gìn hình ảnh của mình: "Sự thành đạt và hoàn hảo". Cô không còn là cô gái nhỏ bé "mang tạp dề" của gia đình, mà là người phụ nữ "hoàn hảo" của xã hội hiện đại, là người lan toả thông điệp và có sức ảnh hưởng đến mọi người. Chẳng bao lâu nữa, cô tin, mình sẽ đạt được mơ ước của tuổi trẻ. Thanh xuân không phải để nghỉ ngơi hay an phận, là phụ nữ càng không thể trở thành thứ vô tác dụng…
Anh, ngoài thời gian cho công việc, nay làm những việc mà vợ anh đã làm ngày trước, lặng lẽ, lặng lẽ... Những cánh hồng qua mùa úa rụng đầy vườn, vài cây bị sâu, bị đục thân, bị thối gốc, chết dần, chết mòn. Dù có thuê thợ trồng bao nhiêu lại đi chăng nữa thì chúng vẫn cứ ủ rũ, héo rồi chết. Lại thay. Rồi chết. Anh càng buồn hơn. Hẳn là chúng chỉ muốn nàng chăm thôi.
- Chúng mày cứ như ta vậy. Cũng cần cô ấy!
Lặng lẽ, anh nhặt bỏ những gốc hư. Anh cũng không trồng lại nữa…
Một ngày cuối đông, Lãng chẳng nhớ là ngày nào nữa, cô yên vị trên máy bay hạng sang chuẩn bị đến Pháp, nơi cô đã mang giống hồng Keira cổ điển về với ngôi nhà hoa hồng, lần này là chuyến công tác dài ngày với một đối tác vô cùng quan trọng. Khi máy bay đã đi vào quỹ đạo thì Lãng mới nhẹ nhõm chợp mắt. Âm nhạc êm ái, thức ăn hảo hạng, thật dễ chịu.
"Đùng!”… Tiếng nổ lớn làm cô giật mình. Máy bay lắc dữ dội. Tim Lãng co lại, thắt giật từng cơn. Sự trấn an của tiếp viên và đai an toàn không làm cô bớt sợ hãi. Chính ngay khi tiếng nổ thứ hai diễn ra thì Lãng lại thấy anh, đang đứng đó dưới giàn hoa hồng và nở nụ cười hạnh phúc. Nhưng gió bạt qua, những cánh hoa bỗng úa khô, lấp đầy trên đất, tua tủa ra thứ nước trong khiết. Anh vùng vẫy trong hoa hồng và biến mất. Một vùng đen tối sầm ập đến, rờn rợn những tiếng lào xào, tiếng hét, tiếng thầm thì ngộp tràn trong khoé mắt...
Khi tỉnh dậy, cô đã thấy anh bên cạnh, trong căn phòng màu xanh quen thuộc. Hơi nóng của bát cháo hành thật xa lạ nhưng thân thuộc. Đã mấy năm rồi cô chưa được ăn thứ cháo này, thứ cháo hành dành cho những người bệnh. Cô đã ngất ngay trước cổng, khi chuẩn bị ra sân bay, anh kịp thấy và đưa nàng trở lại phòng. Lãnh căng đôi mắt nặng trĩu nhìn anh, vẫn là anh, hiền lành và điềm tĩnh. Anh yêu thương cô hơn tất thảy. Nhưng cô đã mất anh, anh đã bị chính hoa hồng của cô giết chết. Anh đưa tay lên trán Lãng, thầm nói nhỏ, ánh mắt rạng rỡ:
- Em đã đỡ hơn rồi! Em... em dừng công việc lại được không?
- Không anh ạ! Nhưng em sẽ chăm sóc cho anh.
- Được rồi!
Anh và Lãng, cả hai cùng cười, tiếng cười ấm cả căn phòng. Chẳng rộn rã nữa, mà nhẹ nhàng, thân thương đến lạ...
Vừa dứt bệnh, Lãng lại phải gánh tin dữ từ công ty. Hợp đồng huỷ. Chủ đầu tư trốn nợ. Chẳng thế cứu vãn điều gì. Sự thất bại kéo đến cùng một lúc làm cho Lãng đau khổ, dằn vặt và tuyệt vọng. Thành công. Danh vọng. Tất cả hùa nhau bào lấy thể xác và tâm hồn của Lãng. Sức Lãng giờ như cánh hoa khô, quắt quéo và rũ rượi, chỉ chợt có gió qua là vụn vỡ. Anh bên cạnh Lãng, nhưng anh chỉ là chiếc bóng lẻ trên nền đất biết di chuyển, vì với Lãng, anh chỉ là anh lúc này. Cố gắng, hi vọng và ước mơ của cô to lớn, ám ảnh chờm lên trên cả hình hài của anh. Mọi thứ đột ngột xảy ra như tiếng nổ trong giấc mơ. Ngoài kia mặt trời đã thôi toả sáng. Ánh nắng chìm dần. Sương đang lan. Đêm ùa về.
* * *
Đã hơn một tuần kể từ ngày Lãng cố chối bỏ cuộc sống, anh nghỉ hẳn ở nhà để chăm sóc cô. Anh nấu cháo nóng cho Lãng. Anh kể chuyện để mong cô thấy khá hơn...
Khi mà con người ta rơi vào bi kịch và khổ ải, hay đau ốm và bệnh tật, họ mới có thời gian để hít thở những mùi quen thuộc thường ngày. Cô nàng bắt đầu sợ hãi những gian phòng gạch hoa sáng bóng. Chúng lạnh lẽo trân tráo nhìn cô, đáng thương và tàn tạ. Cô chủ đáng kính và hoàn hảo ngày nào của chúng ta giờ đã tiều tuỵ, nom như mụ già còi cọc. Chúng ta đã không còn nghe mùi từ cô ả gần một năm. Đó là lí do chúng ta lạnh nhạt và kinh sợ nàng. Nàng quá tham lam và vô tâm. Xem đi, chồng cô, vẫn ở đây và yêu thương cô. Chưa bao giờ mắng nhiếc hay xỉ vả lòng kiêu hãnh hoang đường của cô cả. Nếu là chúng tôi, chúng tôi đã đi và tìm cuộc sống tự do, hoặc chí ít là có một nhân tình mới. Anh ta quả ngu ngốc...
Mọi vật trong ngôi nhà đang chống đối Lãng. Mong một sự thông cảm, Lãng tìm ra vườn để nhận lời an ủi từ hoa hồng. Cô quên mất là chẳng còn vườn hoa nào nữa, chỉ độc nhất mỗi cây rosa villosa đứng đó, nép mình gầy guộc dưới tán cây xanh to lớn. Em ấy đã cố gắng đến hôm nay, để nàng còn có thể nhìn và cảm nhận được sai lầm hiện tại trong sự hối tiếc của quá khứ. Giống hồng nữ hoàng đã khô đến nửa thân, còn nụ thì cứng đơ và màu loang lỗ. Bông hoa cuối cùng vùi trong đất từ ngày nào, đã rã ra làm màu mỡ cho cỏ dại…
Anh và cô kịp chuyển đến một căn hộ nhỏ. Anh vẫn tiếp tục công việc của mình nhưng hình như anh cảm thấy an lòng khi cô vợ nhỏ đã thông suốt và bớt đau buồn. Thực vậy, ánh mắt sáng sủa và nụ cười vô tư đã dần ghé đến, lòng nàng mở ra, khẽ, nhẹ. Lãng thắp sáng và giữ lửa trong gian bếp nhỏ…
Giờ đây, Lãng lại muốn có thêm một em bé. Nghĩ đến ánh mắt của con, trong veo và lấp lánh như ngôi sao, cô thấy niềm hi vọng đang chạy dọc khắp cơ thể, ngấn lại trên những đầu ngón tay nhỏ nhắn, toả ra trong đáy mắt phảng phất buồn. Cô muốn cho anh bất ngờ, nên chiều hôm ấy, Lãng đã một mình đến bệnh viện khám. Nhưng niềm hi vọng kia vỡ vụn khi cô nhận được kết quả. Như chẳng thể tin, lại càng không muốn tin, Lãng chạy như vô thức ra đường. Một chiếc xe không thắng kịp trước người phụ nữ điên dại, nhưng may thay chỉ tạt ngang chân Lãng, nó làm cô trở về thực tại. Chân cô chảy máu, nó đang đau, người ta hét ầm lên rồi bỏ đi, còn lại nàng... Lãng chẳng buồn khóc, cười hay giận nữa. Cô bò đi qua phía lề bên kia rồi cố chống tay đứng dậy.
- Làm ơn! Làm ơn!...
Trước mắt Lãng là một dòng sông êm ả. Nước trong xanh và lẳng lặng. Nước ca những bản tình ca vui vẻ, nước trôi đi chẳng giữ lại hay thông cảm cho ai điều gì. Lãng soi bóng mình trên dòng sông. Nàng nghe những tiếng thầm thì ngày một rõ.
- Nàng ơi! Hãy đi với chúng tôi…
- Nào… Nhanh lên cô gái!
- Mẹ... mẹ... mẹ ơi!
- Bạn còn suy nghĩ điều gì nữa? Bạn còn chờ điều gì nữa?
- Tôi... Tôi... Tôi không xứng đáng!
Lãng thả chân nhẹ men theo một con đường nhỏ đầy gai và đá nhọn. Nhưng con đường cứ ngày rộng dần và trước mặt nàng là một khu rừng dài hun hút. Nơi ấy chẳng thấy bầu trời. Giữa thinh không im ắng tiếng gù, tiếng chí choé, tiếng xầm xì ngày một to. Những lời thì thầm ban nãy lại trôi qua tai nàng, từng chữ, từng lời. Lãng cảm thấy cô độc. Nàng đau đớn đón nhận những lời mời từ sâu thăm thẳm: “Cứu tôi! Cứu em! Anh ơi, cứu em!"
Tiếng hét gai người làm Lãng giật mình, choàng tỉnh dậy. Ngoài trời gió lùa khua qua tấm mành của căn phòng ngủ màu xanh êm ái. Đầu Lãng đang dựa vào bờ vai anh, tiếng thở nhẹ đều đặn…


MÙA DỠ LẠC

Lê Minh Hải (Phú Thọ)
Kết quả hình ảnh cho mùa dỡ lạc

         Mùa dỡ lạc (*) đúng vào đầu mùa hè, khi mà cái nắng chói chang bắt đầu đổ xuống cộng với tiếng ve kêu ra rả trên các tán cây. Cái nắng nóng không ngăn nổi những đoàn người hối hả đi dỡ lạc. Tiếng chào hỏi, cười nói, trêu đùa hòa vào những cơn gió làm dịu đi sự mệt nhọc, hong khô những giọt mồ hôi.
        Ngay từ sáng sớm khi trời còn chưa sáng rõ, bếp mọi nhà đã đỏ lửa, các bà các mẹ đã dậy nấu cơm chuẩn bị cho buổi đi dỡ lạc. Mẹ cũng dậy sớm, tôi nghe thấy tiếng mẹ múc nước ngoài giếng để nấu cơm. Tiếng nước lõng tõng chảy ra từ đáy của chiếc gầu thủng làm tôi tỉnh giấc. Dưới bếp, lửa bập bùng hắt ánh sáng vào tấm cửa nhà trên. Tôi cũng háo hức với những buổi đi dỡ lạc. Tôi chạy xuống bếp hỏi mẹ: “Mẹ ơi! Hôm nay nhà mình đi dỡ lạc hả mẹ?”. Mẹ đang hí húi thổi lửa, giật mình quay ra nhìn tôi: “Ô hay, cái thằng này hôm nay dậy sớm thế! Ừ, đi ra giếng rửa mặt đi con”. Ngoài sân, tôi thấy bố đang chẻ lạt tre và chuẩn bị đòn gánh, xe cải tiến… sẵn sàng cho công việc. Bố rít một điếu thuốc lào, tiếng ống điếu kêu lên, rồi bố thả khói lên trời, thêm ngụm nước chè, cười khoan khoái.
         Mùa dỡ lạc cũng đông vui không kém mùa gặt. Trên các thửa ruộng, mọi người ai nấy cũng nhanh nhẩu thoăn thoắt làm. Những cây lạc nhổ lên là mang lại cho mọi người sự hồi hộp, bởi ai cũng mong mùa lạc năm nay sai củ. Những tiếng hỏi nhau vang lên: “Nhà bác năm nay lạc thế nào, có sai củ không?”. Nếu tiếng cười đáp lại náo nức khắp đồng ấy là mùa năm nay thắng lợi. Còn khi có những tiếng chép miệng, những cái lắc đầu, ấy là thua kém, lạc ít củ… Nhưng nếu như có buồn về sự mất mùa cũng chỉ làm mọi người trầm đi chút thôi, sau đó những tiếng cười lại vang lên, người nông dân vốn quen vất vả nhưng không quen với cái trầm lắng. Thế là họ lại chuyện trò, hỏi han và cười đùa, cười cho quên cái nắng cái mệt, cũng như hướng tới cái tốt đẹp ở phía trước.
        Nắng mỗi lúc một gay gắt, tiếng những khóm lạc được nhổ lên như cũng nhanh dần và khẩn trương hơn. Trong những đám ruộng, lạc được nhổ xếp thành từng bó nhỏ, củ lổn nhổn chĩa ra phía gốc lạc làm lòng người rộn lên niềm vui. Mọi người ai cũng đã được phân công, người nhổ cứ nhổ, người bó cứ bó, công việc theo đó mà trôi chảy. Lạc được bó thành những bó to rồi gánh ra bờ ruộng, chất lên xe cải tiến. Những chiếc xe lúc sáng sớm còn thảnh thơi đứng chờ thì nay phải gồng mình cõng những bó lạc nặng trĩu. Từ xa trông chúng như những con trâu mộng chậm rãi xếp thành đoàn tiến về các ngõ xóm, đường quê.
Càng dần về trưa trời càng nắng nóng, những giọt mồ hôi to tròn nóng hổi bò trên khuôn mặt đỏ gay của những nông dân. Họ đã thấm mệt, tiếng chuyện trò í ới cũng lắng dần. Lũ trẻ con thì dường như không biết mệt, chúng còn mải dõi theo những chú sẻ nâu đang nhảy nhót, kêu lách chách quanh những khóm lạc. Chúng tôi cũng mải mê tìm kiếm những con nườm nưỡm màu xanh, màu nâu béo nục, đem xâu chúng vào ngọn cỏ may đem về nướng. Nhưng có lẽ điều thích thú nhất vẫn là những que kem ngọt mát được đổi bằng những củ lạc. Vào mùa lạc, những bác bán kem cũng dạo quanh cánh đồng để đổi kem. Khi nghe thấy tiếng kêu “kem mút… kem mút” từ chiếc kèn của bác bán kem, là lũ trẻ con lại nhao nhao đòi bố mẹ lấy lạc để đổi kem. Những que kem mát lạnh, những tiếng cười trẻ thơ hình như đã làm vơi bớt sự mệt nhọc của những người lớn thì phải! Họ nhìn lũ trẻ con chúng tôi mà cười thật hiền. Mẹ cũng ngồi ăn kem và nghỉ giải lao, mẹ lấy nón quạt cho chúng tôi. Mùi đất và mùi lạc thơm ngai ngái thoảng lên trong gió, thoảng lên cả mùi của những giọt mồ hôi.
         Lạc sau khi thu hoạch về được chất đống ở góc sân, trên thềm hay ở các gốc cây để tiện ngồi vặt củ. Những buổi trưa, nhà nào cũng thức để ngồi vặt củ lạc. Những củ lạc được vặt ra và để riêng thành hai loại: Thúng lạc già và thúng lạc non. Lạc non là để nhà dùng, còn lạc già thì để bán. Thường, mọi nhà đều chỉ để lại chút ít lạc già để ăn mà thôi. Công đoạn vặt lạc cũng khá đơn giản và nhanh, nhưng cũng có năm mưa nhiều, những thửa ruộng thấp bị úng nước đất nhão bám vào củ, sau khi dỡ lạc về phải mất công đãi rửa khá lâu. Củ lạc sau khi vặt được trãi ra sân gạch để phơi, những củ lạc cứ thế nằm lăn lóc trên sân cho nắng hè làm khô. Mẹ phải canh để trở lạc cho đều nắng, những củ lạc đã sắp khô, hạt lạc nằm trong vỏ cựa mình kêu rào rào làm lòng mẹ vui. Khi những củ lạc đã khô, các nhà gom lạc vào cất chờ đem bán, việc này cũng đồng nghĩa với sự khép lại của một mùa lạc.
       Vào mùa lạc, những buổi tối mọi nhười thường đem lạc để luộc, đây là món ăn chơi rất ngon của người nhà quê. Mọi người lại gọi nhau quây quần bên rổ lạc luộc, cùng ấm nước chè và điếu thuốc lào. Người quê là thế, họ thường gần gũi, thân tình, ngồi lại với nhau để chuyện trò, hàn huyên chứ vào mùa lạc thì nhà ai chả có. Tôi cũng thích ăn lạc luộc, nhưng tôi lại ưa những củ lạc non và lạc bánh tẻ (thứ lạc nửa non nửa già) vì nó vừa bùi, vùa béo lại có thêm vị ngòn ngọt đặc trưng của lạc. Vừa ăn lạc vừa uống thêm vài ngụm nước chè xanh thì… Ôi, tuyêt!
       Ngày nay, món lạc luộc có mặt ở hầu hết các quán bia từ nông thôn cho tới thị thành. Tôi cũng thường ngồi uống bia, ăn lạc luộc và cố tìm, cố chắt lọc mà chẳng bao giờ tìm ra được cái mùi vị như mùi vị trong rổ lạc luộc quê nhà. Nhớ làm sao cái nùi vị ấy ở những mùa lạc xa lơ xa lắc của những năm tháng ấu thơ xưa…

(*) Lạc: Miền Nam gọi là “Đậu phộng”


BÓNG CẢ

JB. Nguyễn Phi Long, S.J
(Học viện Thánh Giuse - Dòng Tên Việt Nam)
Kết quả hình ảnh cho thánh giuse

Thùng… thùng… thùng
Tiếng trống trường vang lên báo hiệu giờ kiểm tra môn văn giữa học kì kết thúc. Cô giáo đứng gần bàn của tôi liền dùng cây thước mà gõ lên mấy tiếng cộp cộp để đánh thức tôi dậy.
- Nãy giờ em không làm được gì hả?- Cô giáo nhìn vào giấy thi và ngạc nhiên hỏi.
- Dạ… dạ… thưa cô… em không biết viết gì hết trơn!
Đề bài kiểm tra văn hôm đó là: “Em hãy kể những điều tốt đẹp đã có với ba của mình”. Yêu cầu của đề văn chỉ đơn giản là kể về một điều gì đó rất gần gũi quen thuộc, nhưng mà sao với tôi nó lại trở nên xa lạ quá!
* * *
Tôi sinh ra và lớn lên ở một khu phố lao động vùng ngoại ô ven biển. Cái nắng, cái gió và cái mặn mòi của biển dường như thấm vào từng thớ thịt của tôi. Mọi người thường bảo rằng đây là khu phố của dân lao động. Thỉnh thoảng tôi cũng nghe thấy đám thằng Tòng gọi nhóm chúng tôi là đám “con nhà mái tôn”. Má tôi làm nghề bán hàng ăn, còn ba tôi thì làm tài xế lái xe tải. Trong cái xóm nghèo này, có lẽ tôi là đứa may mắn nhất vì chỉ có mình tôi là được gọi bằng cái tên “thằng út”, vì chỉ có tôi là có anh có chị.
- Út à… Về ăn cơm! Làm cái gì bên nhà bác Bảy từ sáng tới giờ chưa về nữa vậy?- Má tôi gọi giật ngược từ phía bên kia hàng dâm bụt.
- Dạ... a…a…a…ạ! Con về liền, con đang chơi ô ăn quan…
Nhỏ Thảo mặt buồn xo nhìn tôi với đôi mắt óng ánh như thể ai đó đánh cắp mất hai vì sao sáng trên bầu trời! Nghe má của tôi gọi về ăn cơm, nó liền hỏi:
- Vậy xíu nữa anh có qua chơi tiếp không?
- Có chứ, tao mà về luôn thì mày chơi với ai…
- Dạ, nếu vậy anh ăn cơm xong là nhớ qua chơi với em nha!
- Ừ… ừ…
Tôi “ừ” một tiếng cho lẹ chứ tôi đâu chắc là mình có được đi chơi nữa hay không. Cứ bình thường, tôi chỉ được đi chơi buổi sáng thứ Bảy thôi, còn sau ăn trưa là phải ở nhà ngủ để chuẩn bị cho buổi học giáo lý lúc 2 giờ chiều.
Trưa định mệnh ấy, tôi ăn cơm sao cho thật nhanh để mong còn thời giờ mà qua chơi với nhỏ Thảo tiếp. Với lại trong cái xóm nghèo này, ngoài thằng Tùng với thằng Toản cuối xóm, thì tôi thương nó nhất. Đơn giản là vì nó mồ côi cha nên lúc nào cũng kể cho tôi nghe những kỷ niệm đẹp nó có với ba nó. Nghe má tôi nói là bác trai bị tai nạn lao động ngoài khơi. Chuyện của nó cũng làm tôi ít nhiều giận chính mình, bởi lẽ tôi chẳng có chút kỷ niệm gì với ba của mình, ngoại trừ mấy trận đòn đau như trời giáng!
- Út! Mày lại chạy đi đâu rồi? Không lo ngủ trưa mà đi phá làng phá xóm đúng không?
- Chết rồi Thảo ơi, ba tao ổng phát hiện ra tao trốn ngủ trưa đi chơi… - Mặt tôi trắng bệch không còn tí máu, quay sang cầu cứu nhỏ Thảo.
- Giờ sao anh?
- Trăng sao gì nữa, đợt này chết chắc rồi!
Hôm đó, khi tôi từ nhà nhỏ Thảo về, thì ba tôi đã đứng sừng sững trước nhà đợi. Mắt của ông nhìn tôi như thể một cậu nhãi con nào đó vừa làm điều bất chính. Tay phải của ông vẫn đang còn kẹp điếu thuốc giữa hai ngón tay, rồi đưa vào môi mà rít ra một làn khói trắng hệt như cõi âm ty! Tay trái thì ông đã cầm nhấp nhấp một nhành roi mây. Tôi tiến chậm rãi vào bao lơn mà lòng chợt thấy mình như đang tiến vào pháp đình.
- Thế nào… Ba bảo mày là phải đi ngủ để chiều còn đi học mà mày đi đâu?
- Dạ… con đi chơi với bạn…- Cổ họng tôi thút thít từng từ một.
- Vậy thì sao không xin phép má? Mới bây lớn mà đã dám lừa dối người lớn rồi…
- Con… con đâu có lừa má điều gì đâu!- Tôi gân cổ lên nói như thể mình bị oan.
- Má đã nói là mày nằm dựa lên tay má ngủ trưa. Vậy mà để gạt má mày lúc ngủ say, mày lại lấy gối dài đè lên, còn mày thì trốn đi chơi.
- Con…con…con…- Tôi đứng chết trân ra mà trong lòng vừa sợ vừa mắc cười với “tuyệt chiêu” của mình. Bất giác ba tôi gằn giọng hỏi:
- Thế giờ tính ăn đòn mấy cây đây?
- Dạ… 5 cây…
Để trả giá cho việc không nghe lời của ba mà tôi lãnh “bản án” 5 cây roi mây. Hậu quả là tôi không thể ngồi một cách thẳng thớm khi đi lễ chiều thứ Bảy. Với tôi, nơi mà tôi gọi là gia đình lại có đến hai bầu trời. Má của tôi giống như là một bầu trời xuân với đủ đầy sắc hoa. Để nói về má thì có lẽ sóng biển vỗ bờ từ sáng đến khuya cũng không hết những điều ngọt ngào mà tôi có với má. Nhưng với ba lại hoàn toàn khác. Ông là cả một bầu trời băng giá. Nơi ông chỉ có trầm tư, u tịch và nóng giận. Ít khi nào tôi thấy ba của tôi nói đùa trong nhà. Với ông thì cái gì ra cái nấy, nhà là phải có trên có dưới. Ở bên má thì tôi chẳng bao giờ bị ăn đòn, má tôi giấu hết lỗi phạm. Còn ba lại giống như là “ông đao phủ”! Chính vì vậy mà tôi và cả anh chị tôi đều sợ ba một phép.
* * *
Sáng Chúa Nhật, tôi được đi chơi sau thánh lễ dành cho thiếu nhi. Vừa nhảy xuống khỏi xe máy, tôi chào và cảm ơn ba xong là ù té chạy vào nhà thay đồ. Xong xuôi, tôi phóng qua bên nhà nhỏ Thảo liền.
- Thảo ơi, Thảo! Đi lễ về chưa Thảo ơi!
- Dạ… Đợi em một chút, em đang hái mận.
- Nhanh đi, sắp hết buổi sáng rồi.- Tôi thúc giục nhỏ Thảo như thể là nó mà chậm vài giây thôi, là ông thần thời gian đi ngang lấy mất tiêu ngày nghỉ ít ỏi của mình vậy.
- Xong!- Nó nhảy cái “uỳnh” trước mặt tôi làm tôi hú vía.
- Sao lâu vậy?
- Có lâu gì đâu! Em thay đồ xong hái mận cho anh nè… Coi như quà xin lỗi đó nha!
- Lỗi gì? Mày lấy gì của tao à?
- Có đâu… Xin lỗi vì tại em mà anh bị bác trai la.
- Tao kí đầu mày giờ! La cái gì mà la… Mông của tao còn in hình 5 cây roi hôm qua nè!
- Có hả anh? Cho em coi với!
- Chọc quê tao nữa là tao về đó nha!- Tôi nói trong nỗi căm phẫn còn phảng phất đâu đó nơi lòng mình.
- Thôi em xin lỗi… Anh có đau lắm không?
- Đau chứ!... Mà tao ghét ba tao lắm. Ổng đánh tao hoài. Lần nào bị la là cũng đánh hết trơn. Chắc mai mốt tao phải sắm hai miếng mút như thằng Tùng cuối xóm để lót cho đỡ đau quá.
- Bác trai nghe tiếng “tẹt tẹt” là biết liền.
- Ừ! Nếu vậy thì tao sẽ ráng lớn thiệt lớn rồi lên Sài Gòn học. Nghỉ chơi với ba tao luôn!
- Anh… Đừng nghĩ vậy.
- Chứ sao nữa! Không lẽ chịu bị đánh hoài hả mày?
- Hay anh đổi cho em đi, chịu không?
- Đổi gì?
- Thì đổi ba anh thành ba của em.
- Tại sao?
- 5 năm rồi, ba em không về thăm em… Má em nói là ba đi làm xa rồi từ từ ba về.
Nghe con nhỏ nói chuyện về việc vắng đi “một nửa của cuộc đời” mà tôi thắt cả ruột gan. Tôi vẫn còn đang vẩn vơ suy nghĩ thì nó nói tiếp:
- Thiệt đó anh! Từ hồi ba em đi làm xa, má em nói là khi nào em buồn, thì cứ ra Thánh Giuse mà nói chuyện với Ngài… Em ra mỗi tối luôn.
- Thế mày nói gì?
- Em nói là: “Xin Thánh Giuse làm ba của con. Con sẽ gọi Thánh Giuse là ba Giuse đến khi nào ba của con về”.
- Rồi Thánh Giuse có trả lời mày không?
- Dạ không, nhưng mà em tin là Thánh Giuse chịu làm ba em nên Ngài hay che chở cho má con em.
- Ừ… Tao cũng tin như vậy.
Buổi sáng Chúa Nhật hôm ấy tôi và nhỏ Thảo dành để nói chuyện của nhau. Nó thì kể về nỗi khao khát có một người ba của mình. Còn tôi lại kể những chuyện không hài lòng về ba. Trong xóm này ai cũng nói ông là người trầm tính và ít nói. Với 3 anh chị em tôi thì ông dạy dỗ đến nơi… Rồi thời gian như thoi đưa, cả tôi và nhỏ Thảo đều lên Sài Gòn để theo đuổi những ước mơ riêng của mình.
* * *
Một ngày đẹp trời cuối năm thứ 3… Vừa mới đi học về, tôi nhảy tót lên giường như tìm kiếm chốn nghỉ ngơi sau một ngày dài học hành vất vả. Bỗng chuông điện thoại reo: Reng… reng… reng…
- Alô! Tôi nghe…
- Phúc hả con? Về nhà nhanh. Ba con sắp không qua khỏi rồi…
- Sao? Ba con bị sao?
- Tai nạn giao thông…
Sau đó là một tiếng “tít” kéo dài ở đâu dây bên kia. Mọi chuyện xảy ra quá nhanh làm tôi cứ ngỡ như cơn ác mộng. Tức tốc, tôi bắt xe Sài Gòn-Vũng Tàu để về gặp ba lần cuối. Sau 2 tiếng, vừa mới nhảy xuống xe, tôi chạy thẳng vào nhà như thể một đứa bé đang cố chạy thật nhanh, để chộp lại đầu dây bóng bay đang dần trôi tuột vào cõi hư vô. Ba tôi nằm trên giường, mắt lim dim, người bất động với hàng tá máy móc và dây nhợ. Cả nhà tề tựu bên ba và rồi ông nhìn từng người một. Đầu tiên, ông nhìn má tôi, rồi đến anh Hai, chị Ba và cuối cùng đến tôi với ánh mắt dịu dàng chưa từng thấy nơi ông. Vài phút tiếp theo, ông dần chìm sâu vào giấc ngủ mà tôi biết rằng mọi thứ đều là thật chứ không phải là mơ.
Ba tôi ra đi để lại trong tôi rất ít kỉ niệm đẹp. Họa hiếm chăng là những lần tôi được đi chơi Đà Lạt với ông khi đạt học sinh giỏi. Mà lần nào đi chơi với ba, tôi cũng đều thút thít khóc vì nhớ má. Thế mà, khi ba tôi như áng mây trôi qua đời mình, thì tôi mới thấy được bóng râm mà ông đã phủ trên từng bước đi của tôi.
Bỗng chốc, tôi nhận ra đâu đó những bài học cuộc sống mà ba tôi gởi vào trong từng lằn roi. Mỗi điều ba tôi dạy đều có một cảm giác nóng rát kèm theo. Đời tôi đã vắng đi dáng người gầy gò thuở nào của ông đang đứng chờ tôi trước bao lơn. Ơ kìa! Tại sao mắt tôi rươm rướm nước? Thả mình xuống cái đi văng mà không biết bao nhiêu lần tôi phải nằm lên đó để chịu đòn, tôi bất giác thấy lòng mình xuất hiện hình bóng của ba. Một bóng hình âm thầm, lặng lẽ nhưng vững chãi dõi theo từng bước chân của tôi. Từ hiên nhà, tôi phóng ánh nhìn qua nhà nhỏ Thảo để ngó xem Thánh Giuse còn đứng đó không, hay là Ngài đã đi đâu đó rồi. Có lẽ, từ nay tôi phải xin một điều giống nhỏ Thảo hồi xưa, vì Thánh Giuse của gia đình tôi vừa mới về trời mất rồi!
Tôi nay đã tốt nghiệp và đã đi làm, tôi vẫn thấy đâu đó trong cách sống của mình đã nhuộm lấy hình bóng của ba. Vâng, giờ tôi hiểu thêm rằng, để biết sự to lớn của một cây cổ thụ nơi rừng sâu thì người ta không chỉ đơn giản tính bằng độ cao mà nó có, nhưng còn phải được đánh giá bằng bóng râm mà nó đã rợp được đến đâu.