MẶT NẠ ĐỜI NGƯỜI


Chiếc mặt nạ đời người
Phủ kín một đời ta
Cùng bao nhiêu giả dối
Lặng im không thành lời.

Ta mang nặng tâm tư
Uẩn khuất nỗi u hoài
Bao nhiêu lần biết dại
Lầm lỡ bước chân sai.

Trên đường dài mệt mỏi
Sỏi đá vấp trên đường
Bao nhiêu là hư ảo
Hình thành những vết thương.
Ta chán cảnh vô lương
Cuộc sống thật tầm thường
Đắm chìm trong giả dối
Thói đời bạc như vôi!

Ta mang mặt nạ đời
Oan trái lẫn tiếng cười
Mỉa mai lòng dối trá Cuộc đời vẫn không tha.

Ta gục đầu bên Cha
Nguyện xin người thứ tha
Hưởng nguồn ơn cứu rỗi
Cả một đời bôn ba.

Cha yêu thương vỗ về
Dỗ tình con u mê
Con giật mình tỉnh thức Mặt nạ đời chán chê.

Khi con mang mặt nạ
Rỗng tếch cả đời người
Vì lòng con giả dối
Xin gột bỏ người ơi!

Hoàng Công Nga





Ở Việt Nam, có lẽ không mấy người Công giáo bán hàng cho cha xứ, nhất là giáo dân trong giáo xứ. Thay vào đó, người giáo dân thường lựa những gì ngon nhất, tốt nhất đem biếu cha thầy. Nhớ những tháng giúp một giáo xứ vùng biển nơi có nhiều ngư dân, mỗi lần tàu về, mỗi ngư dân đem biếu cha xứ những con cá, con mực to nhất. Do đó nhà xứ có 2-3 tủ đông chứa hải sản ăn cả tháng không hết. Còn ở An Giang, dừa và thốt nốt gần như luôn có sẵn.

Nhưng ở đây, việc người giáo dân đem nhánh chuối, trái đu đủ, trái bí ngô, bó rau hay con cá ... đến nhà xứ để bán là chuyện bình thường. Khi thấy người dân đem gì đến nhà xứ, câu đầu tiên là hỏi giá. Đôi khi họ không muốn lấy tiền nhưng muốn đổi mì gói, đồ hộp, xà bông, muối, đường... Và cũng có những khi họ nói không bán, cái này là cho, chủ yếu là đồ ăn (khoai), tuy vậy điều đó không có nghĩa “free” nhưng là đổi lại gì cũng được. Khi đó, mình có thể gởi lại họ một cái gì đó.


Lối suy nghĩ này cũng đã ăn sâu vào tâm thức của những đứa trẻ. Khi thấy mình làm vườn hay làm gì đó, chúng sẽ háo hức tới phụ giúp (có khi rất đông, quá mức cần thiết), với một suy nghĩ sẽ nhận được cái gì đó (chủ yếu là kẹo, bánh). Để cho hai bên đều hài lòng, mình cần thương lượng với chúng trước, ví dụ: giờ chỉ có chuối hay khoai thôi, hết bánh kẹo rồi, chịu thì làm, không thì đứng đó chơi thôi nha.

Trưa nay đang ăn cơm, có tiếng gõ cửa, mình mở ra thì thấy hai nữ sinh đứng đó. Hai em là học sinh của trường giáo xứ ở trong khuôn viên nhà thờ. Hai em chắc khoảng lớp 7, nhưng trông già hơn học sinh ở VN. Một em đưa cho mình củ nghệ đã được gọt rửa sạch sẽ (như hình). 
Mình giả bộ hỏi cái này để làm gì? Em trả lời để nấu với cá, ngon lắm. Mình tỏ ra rất vui và bất ngờ vì giờ mới thấy củ nghệ ở PNG, mình nói cám ơn. Chưa kịp quay lưng đi thì em ấy nói: Tụi em đói quá, cho tụi em chút gì để ăn đi (We’re so hungry but we have nothing to eat. Please give us some food!). Lúc này mình mới hiểu ra đây chính là cách người ta trao đổi hàng hoá! Mình vào nhà đem cho hai em một ít thức ăn để ăn tạm.

Tóm lại, cơ chế là thế này: Người ta đem cho thì mình không thể không nhận; mà nhận rồi, người ta xin cái gì mình cũng phải cho lại. Chợt nghĩ, cứ theo cái đà này, mai mốt lỡ có ai đó xin cái khác thì sao ta?





TTO - Câu chuyện Nhà Giả Kim của tác giả Paulo Coelho mãi còn là câu chuyện đẹp và hay. Rất nhiều người bỏ quê lên phố với khát vọng đổi đời, với khát vọng tìm thấy thiên đường.



40 tuổi, 50 tuổi nhìn lại ngẩn ngơ....

Sau một hành trình gian nan ....

Chợt nhận ra cha mẹ già nơi quê nghèo là cả kho báu ....

Vội vàng quay về thì không còn nữa.

Sáng nay chạnh lòng vì một bệnh nhân 45 tuổi đến khám với lý do mệt mỏi, chán ăn, đi tiểu có kiến bu .... 

Kết quả siêu âm: Theo dõi u gan đa ổ, nghi HCC (Hepatocellular carcinoma, ung thư biểu mô tế bào gan).

- Nhập viện nhe anh.

- Không được đâu. Nhà tôi neo người lắm.

- Vợ con anh đâu?

- Mới có vợ mới, nói đúng hơn là bồ nhí, chưa có con. Còn vợ con trước do tôi nhậu quá, họ bỏ đi rồi.

- Cha mẹ anh đâu?

- Ông bà ở quê. Nhưng thôi, nghe tin này ổng bả sao sống nổi.

- Anh thật sự thương họ à?

- Bác sĩ nói gì kì vậy?

- Thế một năm 365 ngày, anh gặp ổng bả mấy ngày.

- Dịp Tết ... nhưng mà hình như loáng thoáng thôi vì bận nhậu với bạn bè, lối xóm ....



Khi bệnh nhân lầm lũi ra về hẹn tuần sau nhập viện, mình lại tiếp tục công việc khám bệnh.

Nếu đúng là ung thư gan đa ổ, mong bệnh nhân chiến đấu để giành lấy những "365 ngày" của sự sống. 


Nhưng trong từng 365 ngày đầy khó khăn trước mắt, bệnh nhân sẽ làm gì với cha mẹ, với vợ cũ, với hai đứa con?

Trời ạ! Mình là bác sĩ mà cứ như vậy hoài sao khám bệnh đây?

- Bác sĩ ăn tết vui không?

- Dạ vui, còn cô ăn tết vui không?

- Dạ, nghe lời bác sĩ, cứ kệ bệnh tai biến liệt nửa người đi nên tôi vui.

- Thiệt. Cô có phúc lắm đó biết không? Thường chỉ có người vợ mới chăm sóc chồng dù bất cứ hoàn cảnh nào, còn đằng này, hai năm nay bác sĩ thấy chú chăm sóc cô quá tốt. Chích từng mũi insulin, cho uống từng viên thuốc, dìu từng bước chân đi.

- Bác sĩ, đừng nói vậy. Vợ tôi mặc cảm rồi buồn. Hồi đó bả cực vì tôi lắm. Tôi cũng rượu chè, gái gú dữ lắm. Nhưng bả tha hết.

Chồng bệnh nhân "chỉnh" ngay lời mình nói. Thật ra, mình muốn những bệnh nhân mình nhận ra và đếm những điều may mắn họ đang có được hơn là kể những nỗi đau và làm quá lên về bệnh tật.

Họ về rồi, lòng mình ấm lên một chút!

Nắng bỗng đẹp hơn. Bầu trời bỗng trong hơn.

Mình nhớ có một câu nói rất hay là: Để có được một cái nắm tay ân cần bình an của tuổi già, người ta phải trả biết bao nhiêu bão giông tuổi trẻ.

Ừ thì, tuổi trẻ có thanh xuân rực rỡ như nắng như hoa nên có nhiều lựa chọn, nên nghĩ mình là một vì sao ... Ít ai chịu hy sinh, ít ai cảm nhận được hơi ấm còn quan trọng hơn vẻ đẹp bên ngoài, chân thành còn quan trọng hơn những lời đường mật.

Mái nhà có hơi ấm tình thương mới thành mái ấm.

Thương được thì thương đi, đừng cân đo nữa!

BS CK II NGUYỄN BẢO TRUNG
Nguồn: https://tuoitre.vn/365-ngay-cua-mot-nam-ta-da-lam-gi-vay-20190219180436782.htm



Trại phong Quy Hoà được nhiều người biết đến vì gắn liền với tên tuổi nhà thơ Hàn Mặc Tử, chúng tôi xin gởi đến quý vị một cuộc phỏng vấn ngắn với sơ Maria Đặng Thị Hoàng, Dòng Phan Sinh Thừa Sai Đức Mẹ, đã nhiều năm phục vụ tại trại phong Quy Hoà.



Các câu hỏi phỏng vấn:


1. Xin sơ giới thiệu đôi chút về trại phong Quy Hoà!


2. Thưa sơ, số lượng hiện tại là bao nhiêu ạ?


3. Xin sơ cho biết các bệnh nhân được trợ cấp như thế nào?

4. Thưa sơ, việc hội nhập của họ / con cái họ với cộng đồng thế nào?

5. Bình thường khi nói đến trại phong thì sẽ thấy khổ và thiệt thòi rồi. Nhưng con xin có một câu hỏi ngược một chút. Cuộc sống thì luôn cần có những niềm vui và hy vọng, vậy xin sơ cho biết các bệnh nhân có những niềm vui nào trong cuộc sống của họ?

6. Để chăm sóc bệnh nhân thì cũng cần đến chuyên môn, vậy có phải tất cả các sơ đều học về y tế, hay có các mảng khác các sơ có thể dấn thân tại đây mà không đòi hỏi chuyên môn y tế?

7. Xin sơ kể một kinh nghiệm của sơ với trại phong Quy Hoà này.

Xin cảm ơn sơ!

Kính chúc sơ và cộng đoàn các sơ Phan Sinh Thừa Sai Đức Mẹ Quy Hoà luôn tràn đầy niềm vui trong việc phục vụ. Xin Chúa cũng chúc lành và luôn đồng hành cùng các bệnh nhân!

Văn Yên, SJ

(vatiannews 16.02.2019)
http://conggiao.info/phong-van-so-maria-dang-thi-hoang-ve-trai-phong-quy-hoa-d-49141

Vào những ngày cuối năm cũ, đầu năm mới khi gặp nhau người ta hay hỏi nhau rằng: Năm qua bạn đã đạt được những gì, đã thăng tiến ra sao, đã mua được bao nhiêu thứ…

Những câu hỏi đó chẳng vấn đề gì. Sống là một sự biểu hiện. Những thứ được ấy đôi khi giúp tăng thêm phần biểu hiện lấp lánh rực rỡ của con người.

Nhưng nếu thêm vào những câu hỏi sau có lẽ trọn vẹn hơn: Trong năm qua, bạn đã buông được những gì, đã cho đi được bao nhiêu, đã gánh vác giùm những người kém may mắn hơn ra sao…

Và trong năm qua, bạn sống có bình an và hạnh phúc không? Nếu có, thì hãy mừng vì điều đó! Nếu không, thì vì lý do gì đã khiến lòng bất an, lo sợ? Có bước qua được?…

Có hàng triệu hàng triệu việc để nhìn lại, đúng không? Mỗi người mỗi hoàn cảnh sống khác nhau thì sẽ nhìn lại một năm qua khác nhau!

Nhìn lại giúp chúng ta tìm thấy mình đang ở đâu, đang làm gì và chuẩn bị cho năm tới ra sao!

---

Thật sự, trong hành trình mải miết của kiếp người, ngoài dịp cuối năm, chúng ta rất cần những dịp khác nữa để “nhìn lại”!

Nhìn lại chính mình, nhìn lại người thương, nhìn lại môi trường sống xung quanh, nhìn lại những mối quan hệ và nhìn lại nhiều thứ khác nữa… để có thể bước tiếp những bước như mây thong dong qua năm tháng ngỡ như dài rộng nhưng chỉ là thoáng chốc này!

Cơ mà muốn nhìn lại thật rõ có phải chúng ta cần ngồi thật yên?

Chỉ khi ngồi yên mới lắng lòng được! Và khi lắng lòng được mọi thứ sẽ hiển bày ra! Có khi nào chúng ta thốt lên: Ơ, cả năm qua mình đã sống cuộc sống tẻ nhạt vậy sao, ngày nào cũng giống như nhau, sáng sáng đến nơi làm việc, chiều chiều về nhà trong căng thẳng mệt mỏi bởi dòng xe kẹt cứng, khói bụi mịt mù?

Ơ, cả năm qua mình đã sống cuộc sống buồn chán vậy sao, quẩn quanh với những mối quan hệ rạn nứt, mất nhiều năng lượng, giam hãm trong căn hộ bé nhỏ một đôi cánh thuộc về bầu trời cao rộng?

Có nhiều khi vì giận một người mà mất cả năm tháng để đau!

Có nhiều khi vì bị ngã mà mất cả thanh xuân để xuýt xoa vết thương mà không nhận ra tất cả đã trôi qua và những câu chuyện vừa kể ra đã cũ!

Hay chúng ta reo lên vui mừng. Cả năm qua mình đã sống với năng lượng tích cực bình an?

Mình đã dưỡng nuôi được tình thâm với con cái, cha mẹ, người thương. Mình biết cùng nhau ăn những bữa cơm chiều đầm ấm, cùng nhau đi du lịch cho thấy đất trời bao la…

Mình đã hàn gắn được những hiềm khích, tha thứ được những lỗi lầm, chấp nhận được những biểu hiện khác nhau của người xung quanh.

Có hàng triệu hàng triệu việc để nhìn lại, đúng không? Mỗi người mỗi hoàn cảnh sống khác nhau thì sẽ nhìn lại một năm qua khác nhau!

Nhìn lại giúp chúng ta tìm thấy mình đang ở đâu, đang làm gì và chuẩn bị cho năm tới ra sao!

Như hàng cây ngoài kia đã chịu đớn đau rứt hết khỏi thân cây những chiếc lá già nua, sâu bệnh, cằn cỗi… trong mùa đông. Và thời khắc mùa xuân đến hàng cây ấy đang rưng rưng tan chảy trong niềm vui từ những mầm xanh, lộc biếc nứt chồi vươn lên…

Đất trời mỗi năm mỗi thay áo mới, nhìn với đôi mắt thiền tập thì mỗi giây mỗi biến đổi không ngừng. Chúng ta cũng nên thay áo mới cho lòng mình: Chiếc áo hạnh phúc của lòng thương, chiếc áo bình an của sự độ lượng, chiếc áo tinh khôi của hy vọng.

Khi không còn chất chứa những điều phiền muộn, giận hờn, tham đắm vụn vặt nữa, cánh én trái tim sẽ bay lên nhẹ nhàng và sẽ nhận ra mùa xuân ở ngay đó chứ đâu!




Một phép lạ vừa được chính thức công nhận tại đền thờ Đức Mẹ Lộ Đức ở Pháp, phép lạ Lộ Đức thứ 70 được Giáo hội Công giáo công nhận.

Một phép lạ vừa được chính thức công nhận tại đền thờ Đức Mẹ Lộ Đức ở Pháp, phép lạ Lộ Đức thứ 70 được Giáo hội Công giáo công nhận. 

Phép lạ đã được Đức cha Jacques Benoit-Gonin ở Beauvais, Pháp tuyên bố chính thức vào ngày 11 tháng 2 năm 2018, ngày lễ Đức Mẹ Lộ Đức cũng là ngày Thế Giới Bệnh Tật. Trong thánh lễ tại đền thờ Basil, Đức cha Nicolas Brouwet đã loan báo phép lạ. 

Sự kiện kỳ diệu có liên quan đến một nữ tu người Pháp, Sơ Bernadette Moriau, người đã đi hành hương đến đền thờ Đức Mẹ Lourdes năm 2008. Sơ đã bị biến chứng cột sống, phải ngồi xe lăn và bị tàn tật hoàn toàn từ năm 1980. Sơ cho biết sơ đã phải dùng morphine thường xuyên để kiểm soát cơn đau. 

Theo Tạp chí Associated (the Associated Press), khi sơ Moriau đến thăm đền Lộ Đức gần mười năm trước, sơ nói rằng sơ chưa bao giờ đòi hỏi một phép lạ. 

Tuy nhiên, sau khi tham dự lễ cầu nguyện phước lành cho người bệnh tại đền thờ, một cái gì đó bắt đầu thay đổi. 

"Tôi cảm thấy một sự sung mãn kì lạ trong cơ thể mình, một sự thư giãn, ấm áp, tôi trở về phòng và ở đó, một giọng nói bảo tôi hãy tháo cái giá nâng cổ ra," vị nữ tu 79 tuổi hồi tưởng và kể lại. 

"Thật ngạc nhiên. Tôi đã có thể di chuyển được," sơ Moriau nói, lưu ý rằng sơ ngay lập tức bước ra khỏi xe lăn, tháo bỏ cái giá nâng cổ ra và từ bỏ hẳn các loại thuốc giảm đau. 

Trường hợp lạ lùng của sơ Moriau đã gây sự chú ý cho Ủy ban Y tế Quốc tế Lộ Đức, vì họ đang nghiên cứu rộng rãi về sự phục hồi bệnh tật của các nữ tu. Cuối cùng, họ cho rằng việc chữa bệnh cho bà Moriau không thể nào giải thích một cách khoa học được. 

Nguồn: CNA/EWTN News

Trần Như Luận chuyển ngữ.


Phép lạ thứ 70 được công nhận tại Lộ Đức

Đền Đức Mẹ Lộ Đức ở phía nam nước Pháp là một trung tâm hành hương nổi tiếng dành cho các khách hành hương sùng kính Đức Mẹ và cho các người muốn được khỏi bệnh. Đây là nơi chị Bernadette Soubirous đã chứng kiến Đức Mẹ hiện ra 18 lần từ ngày 11.2.1858 đến 16.7.1858. Ngày 25.2.1858, một đoàn người cảm tình đi theo Bernadette đến hang động. Sau khi cầu nguyện, cô đứng dậy, ngập ngừng tiến tới gần hang đá rồi qùi xuống. Theo lệnh của “người thiếu nữ diễm lệ”, cô cúi xuống lấy tay cào đất. Một dòng nước vọt lên. Dòng nước đó chảy mến cho đến ngày nay, khoảng 120.000 lít nước chảy ra trong vòng 24 tiếng đồng hồ. Khách hành hương đến uống nước và ước mong được chữa lành bệnh tật xác hồn. Nhiều người đã nhận được ân phúc nhờ uống nước Lộ Đức.

Trong số 70 ngàn trường hợp khỏi bệnh nhờ sự can thiệp của Đức Mẹ Lộ Đức, chỉ có 70 trường hợp được chính thức công nhận là phép lạ qua các thủ tục điều tra và khám nghiệm y khoa. 

Ngày 11.2.2019, Lễ Đức Mẹ Lộ Đức và Ngày Thế Giới của Bệnh Nhân, Đức Cha Jacques Benoit-Gonin, Giám mục giáo phận Beauvais, đã chính thức công nhận phép lạ thứ 70 tại Lộ Đức. 

Từ năm 1980, nữ tu Bernadette Moriau bị đau cột xương sống nên phải dùng xe lăn di chuyển vì không thể đi đứng được. Dì phải dùng thuốc phiện để giảm đau. Dì đi hành hành tại đền Đức Mẹ Lộ Đức năm 2008. Nữ tu 79 tuổi kể lại: Vào 10 năm trước, tôi đi hành hương đền Đức Mẹ Lộ Đức nhưng không cầu xin phép lạ. Tuy nhiên, sau khi tham dự nghi thức xức dầu bệnh nhân và chúc lành Thánh Thể cho bệnh nhân tại đền Đức Mẹ, tôi cảm thấy có gì đang xảy ra. Tôi cảm thấy thân thể khỏe mạnh và thư giãn…Tôi về phòng và có tiếng nói với tôi “hãy bỏ nạng đi”. Thật ngạc nhiên, tôi có thể đi lại…tôi rời xe lăn, đôi nạng và thuốc giảm đau”

Trường hợp Dì Moriau được trình lên Ủy Ban Y Khoa Quốc Tể để khám nghiệm việc dì được khỏi bệnh lạ lùng và khoa học không thể giải thích được về việc khỏi bệnh này. Sau khi việc khỏi bệnh được Ủy Ban Y Khoa Quốc Tế nhìn nhận, hồ sơ được gửi đến Giám Mục Giáo Phận phán quyết. Sau khi Đức Giám Mục Giám Mục nhìn nhận sự kiện, việc khỏi bệnh có thể được Giáo Hội công nhận là một phép lạ. 

Phép lạ là một dấu hiệu ngoại lệ của Chúa vượt qua khả năng và trật tự thụ tạo nhưng con người có thể cảm nhận được qua giác quan. Có 5 yếu tố cấu tạo: 

1/. Phép lạ hoàn toàn là do quyền năng Thiên Chúa vì Thiên Chúa là nguồn gốc của phép lạ; 
2/. Phép lạ vượt khỏi quyền năng của thụ tạo. Mặt trời đứng yên như được thuật lại trong sách Joshua 10,33. Mặt trời múa ngày 13.10.1917 tại Fatima; 
3/. Phép lạ vượt khỏi trật tự của thụ tạo. Chúa Giêsu làm phép nước thành rượu tại tiệc cưới Cana; 4/. Phép lạ là biến cố ngoại lệ. Lazarô chết 3 ngày được Chúa cho sống lại; 
5/. Phép lạ có thể cảm nghiệm được qua giác quan. Chúng ta không hiểu tại sao xảy ra nhưng cảm giác đón nhận được sự kiện lạ là những công trình của Thiên Chúa, hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp qua lời chuyển cầu của Mẹ Maria, của một vị thánh hay nhiều vị thánh. 


Lm. Nguyễn Tất Thắng OP





Mùng hai tết, chúng ta cầu nguyện cho ông bà tổ tiên. Đừng để cha mẹ còn sống ngay bên mà cũng đã như chết khi chúng ta từ chối sự hiện diện của các ngài…

Truyện ngắn

ĐỜI MỒ CÔI

--------------------------------------


- Chị xin cha xứ chữ ký để các xơ nhận mẹ em vào nhà dưỡng lão, chớ em bận đi làm ăn riết không ai chăm sóc bà, mà người ta thì đòi cái nhà này rồi.

Cậu con trai trả lời cương quyết với chúng tôi như thế. Rồi lặng lẽ bỏ vào nhà trong. Mặc kệ chúng tôi với bà cụ nằm trên giường bệnh, ngơ ngác nhìn vào góc tường. Nước mắt lưng tròng.

Làm thành viên của hội Lêgiô bao nhiêu năm nay, thăm viếng không biết bao nhiêu đời cô thế cô thân, nhưng với tôi, có lẽ trường hợp của bà quả có một không hai.

Tuổi thơ của bà là cả một bầu trời u ám và bất hạnh. Cha đi lính Việt nam Cộng hoà, bị việt cộng bắn chết. Mẹ bị bắt làm vợ bé cho nhà người ta , rồi đau buồn chết theo chồng. Được các xơ thương tình mang vào trại mồ côi nuôi dưỡng, bà lớn lên trong sự thiếu vắng tình cảm gia đình. Nên mỗi khi có đoàn từ thiện đến thăm là y như rằng đứa trẻ ấy lại ôm bất kỳ ai đến gần, như thèm muốn một chút hơi ấm tình cảm gia đình.

Lớn lên, đến tuổi lấy chồng, bà được người ta thương yêu cưới hỏi hẳn hoi. Các xơ cấp cho một miếng đất nhỏ, vợ chồng làm nhà, rồi làm ăn nuôi nhau mà sống. Nhưng về chung sống với nhau có được ba mặt con thì chẳng may chồng bị ung thư rồi qua đời. Bỏ lại bà một thân một mình nuôi ba đứa con thơ. Vào cái thời bao cấp, chỉ những người đương thời mới có thể hiểu được đời sống cơ cực túng quẫn như thế nào. Một bà mẹ với ba đứa con thơ, bà làm đủ loại công việc để có thể nuôi dưỡng các con.

Con dần lớn rồi lần lượt lập gia thành thất. Lâu lâu lại về thăm bà, dúi vào tay vài đồng nói má mua sữa mà uống. Cả một đời vì con, nên mới ngoài năm mươi mà trông bà như một cụ già tám mươi, tóc bạc trắng, trán nhăn, khóe mắt đầy vết chân chim, cộng thêm căn bệnh tai biến khiến bà đi lại khó khăn.

Rồi ba đứa con suốt ngày cự cãi, đòi chia nhau căn nhà mà ngày xưa các xơ cấp đất cho bà. Nằm ú ớ trên giường, bà có níu tìm sự cảm thương từ ba đứa con. Nhưng chúng khăng khăng bằng mọi giá phải gửi bà vào nhà dưỡng lão của các xơ để bán ngôi nhà rồi chia chác.

Những ngày cuối đời, không một đứa con chăm lo, bà phải cậy dựa vào tình thương của những người không máu mủ thịt thà nhưng còn có tình người.

Cậu con trai cả cương quyết đề nghị với chúng tôi xin cha xứ chữ ký chứng nhận bà không có người nuôi dưỡng để được nhận vào nhà dưỡng lão. Để ba anh em bán nhà chia cho nhau. Nghe ba đứa con bàn bạc với chúng tôi, bà không nói nên lời, chỉ chăm chăm nhìn vào hư không, rồi những giọt lệ tuôn rơi qua khóe mắt.

Cuối cùng bà cũng được các xơ nhận vào nhà dưỡng lão. Tiễn bà vào nhà dưỡng lão, dẫu biết rằng nơi đây chắc chắn bà được các xơ tận tình chăm sóc, nhưng đâu đó trong sâu thẳm linh hồn bà vẫn cần lắm một tình cảm máu mủ thịt thà. Một thứ tình cảm mà ngay từ nhỏ bà không được ban cho. Rồi đến khi tuổi đà xế bóng, cái thứ tình cảm thiêng liêng ấy cũng từ bỏ bà.

Cuối cùng rồi đời mồ côi thì cũng lại mồ côi…


(Bài viết đã được đăng trong mục "Dặm đường du mục", Mục Đồng tập 5)


Tôi về Bình Hải, một chiều mùa đông gió thổi lạnh, biển nhoà trước mắt không phân biệt nổi chỗ tiếp giáp chân trời. Nếu là biển vắng, chắc cảnh biển thế này làm não lòng du khách. Nhưng lại không, tôi thấy vui khi nhìn những chiếc thuyền neo trên bến lắc lư như dang chào khách. Mấy người phụ nữ cặm cụi rửa mực, những con mực to bằng hoa bắp chuối. Đám trẻ say sưa đá bóng, dưới chân tôi hình con rồng ngộ nghĩnh vừa được vẽ trên nền cát ướt. Tôi chợt nghĩ, trong cảnh buồn nhịp sống vẫn sôi nổi thì cuộc đời vẫn đẹp.

(Mời đọc tiếp)

HÃY RỬA CHÂN CHO NHAU...!


"Chúa Giêsu rửa chân cho thánh Phêrô" của họa sĩ Ford Madox Brown (1821-1893), vẽ trong khoảng thời gian từ 1852 đến 1856.


Đây là một trong những tác phẩm thuộc phong cách Tiền-Raphael (Pre-Raphaelite) xuất sắc của nghệ thuật Anh Giáo triều đại Victoria.

Để hiểu ý nghĩa bức tranh, hãy đọc đoạn trích dười đây trong Phúc âm của thánh Gioan:

(1) Trước lễ Vượt Qua, Ðức Giêsu biết giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng.

(2) Trong bữa ăn tối, ma quỷ đã gieo vào lòng Giuđa, con ông Simon Ítcariốt, ý định nộp Ðức Giêsu. (3) Ðức Giêsu biết rằng: Chúa Cha đã giao phó mọi sự trong tay Người, Người bởi Thiên Chúa mà đến, và sắp trở về cùng Thiên Chúa, (4) nên bấy giờ Người đứng dậy, rời bàn ăn, cởi áo ngoài ra, và lấy khăn mà thắt lưng. (5) Rồi Ðức Giêsu đổ nước vào chậu, bắt đầu rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau.

(6) Vậy, Người đến chỗ ông Simon Phêrô, ông liền thưa với Người: "Thưa Thầy! Thầy mà lại rửa chân cho con sao?" (7) Ðức Giêsu trả lời: "Việc Thầy làm, bây giờ anh chưa hiểu, nhưng sau này anh sẽ hiểu". (8) Ông Phêrô lại thưa: "Thầy mà rửa chân cho con, không đời nào con chịu đâu!" Ðức Giêsu đáp: "Nếu Thầy không rửa chân cho anh, anh sẽ chẳng được chung phần với Thầy". (9) Ông Simon Phêrô liền thưa: "Vậy, thưa Thầy, xin cứ rửa, không những chân, mà cả tay và đầu con nữa". (10) Ðức Giêsu bảo ông: "Ai đã tắm rồi, thì không cần phải rửa nữa; toàn thân người ấy đã sạch. Về phần anh em, anh em đã sạch, nhưng không phải tất cả đâu!" (11) Thật vậy, Người biết ai sẽ nộp Người, nên mới nói: "Không phải tất cả anh em đều sạch".

(12) Khi rửa chân cho các môn đệ xong, Ðức Giêsu mặc áo vào, về chỗ và nói: "Anh em có hiểu việc Thầy mới làm cho anh em không? (13) Anh em gọi Thầy là 'Thầy', là 'Chúa', điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa. (14) Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. (15) Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em.
......

(Bài viết đã được đăng trong mục "Dặm đường du mục", Mục Đồng tập 5)


Thay lời Ban Biên soạn:

“Lm. Nguyễn Hữu Triết sinh ngày 4 tháng 8 năm 1945 trong một gia đình Công giáo tại làng Ngọc Lý, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương.
Cha ông là một thầy đồ, vừa dạy học vừa bốc thuốc ở làng. Nhà nghèo, tuy nhiên cụ rất trân trọng và giữ gìn hai hiện vật cổ là bộ ấm chén men lam và chiếc điếu bát đời Đạo Quang (Trung Quốc).

Điều ấy đã ảnh hưởng dến ý thức về giá trị những món đồ cổ và nỗi đam mê sưu tập cổ vật của ông về sau này. Năm 1954, ông theo gia đình di cư vào Nam.

Năm 1958, ông theo học tại Tiểu Chủng viện Sài Gòn. Năm 1972, ông thụ phong linh mục và được bổ nhiệm làm Phó xứ Gia Định. Từ năm 1993 đến nay, ông được bổ nhiệm làm Chánh xứ Tân Sa Châu (Tân Bình, TP.HCM). Tại đây ông dã có diều kiện sắp xếp bộ sưu tập cách có hệ thống. Chỉ trong thời gian gần 20 năm, ông được xem là một trong những nhà sưu tập cổ vật hàng đầu ở Việt Nam với:
- Bộ sưu tập đèn cổ lớn nhất Việt Nam.
- Bộ sưu tập các sách cổ.
- Bộ sưu tập các hiện vật liên quan dến Truyện Kiều.

Hiện tại, ông còn là cố vấn của Câu lạc bộ sách cổ và Câu lạc bộ sưu tầm cổ vật Việt Nam. Rất nhiều hiện vật sưu tầm của ông được trưng bày triển lãm và được trao giải thưởng về sưu tầm hiện vật quý hiếm.” (Từ diển bách khoa toàn thư mở Wikipedia).

Mục Đồng dã xin ông giới thiệu bộ sưu tập ấy và dưới dây là bài mở dầu


 (Mời đọc tiếp)

 


Tác giả từng nhận giải Chung Kết Viết Về Nước Mỹ năm 2010. Ông là một Linh mục Dòng truyền giáo Ngôi Lời thuộc tỉnh dòng Chicago. Nhiệm sở hiện ở Alice Springs, Northern Territory, lo cho thổ dân vùng sa mạc đất đỏ Úc Châu.

* * *

Em hỏi tôi:

— Bí quyết nào để thành công? Ngủ trễ, thức sớm, chuyên cần. Vậy đã đủ để mình sẽ trở thành một người thành công trong xã hội hay không?

Nghe em hỏi, tự dưng tôi muốn phá ra cười (thật sự là tôi đã nhìn thấy mình đang đứng cười, thiếu điều muốn sặc cần cổ!). Em hỏi tôi, một người sinh ra và lớn lên với thất bại; có những lần thất bại đến nỗi khô khốc trống rỗng cả hai bàn tay (vừa nghĩa đen lẫn nghĩa bóng)!

Tôi nhìn em, em tuổi thanh xuân hai mươi; mắt sáng rực rỡ, tóc đen lay láy không một cọng bạc.

Tôi cũng đã từng ở tuổi hai mươi. Nhưng (tiếc quá!) tuổi hai mươi của một thời bể dâu; tuổi hai mươi mất niềm tin vào mình và vào người; tuổi hai mươi sợ hãi học đường và xã hội; tuổi hai mươi cương quyết bỏ đi, để lại sau lưng một quá khứ và hiện tại xám buồn trộn lẫn với một viễn ảnh tương lai bấp bênh. Sau mỗi lần vượt biên thất bại, thuyền gỗ lênh đênh trôi dạt về lại đất Mẹ, tuổi hai mươi chân đất bước xuống thuyền, hai tay bị còng, công an áp giải dẫn thẳng vào nhà tù Gò Công, Tiền Giang, và Hàm Tân; tuổi hai mươi làm bạn với muỗi, rệp, gián, chuột của xà lim và nhà tù ẩm thấp chật nghẹt tù nhân.

Tôi đã ngủ trễ và thức sớm, nhưng bừng con mắt dậy, vẫn thấy mình tay trắng lại hoàn trắng tay.

Giờ em hỏi tôi. Xin đừng trách nếu tôi muốn phá ra cười.

Em mến,

Cuộc sống nào cũng là một hành trình của lên đường, tìm kiếm. Có những hành trình thành công. Có những hành trình… thì ngược lại!

Từ những ngày cuối cùng tháng Tư định mệnh, những con thuyền gỗ đã nhổ neo lên đường bỏ lại sau lưng bờ biển quê hương. Trên những khoang thuyền tỵ nạn chật hẹp, bao nhiêu thân xác Việt Nam tay giơ cao ngang trán ngong ngóng chờ đợi giây phút diện kiến sợi chỉ mới tinh khôi kéo dài nơi đường chân trời. Những con thuyền tỵ nạn đã khởi hành với lòng quyết tâm và lòng đam mê đời tự do. Sau những ngày giờ trôi nổi trên sóng nước, những con thuyền gỗ cuối cùng dừng những vòng quay chân vịt, đỗ lại tại bến lạ, Phi Luật Tân, Thái Lan, Mã Lai, Nam Dương, Hong Kong. Một trang sách mới mở ra chào đón những người quyết tâm lên đường. Hành trình kiếm tìm tự do chung cuộc là một hành trình thành công.

Cộng đồng Việt Nam hải ngoại, sau những ngày tháng tỵ nạn, cuối cùng, tái định cư trên những vùng đất mới, Na Uy, Đức, Pháp, Hoa Kỳ, Canada, Úc Châu. Những bàn chân Việt, gần như một mẫu số chung, khởi đầu hành trình mới tại những quốc gia mới với hai bàn tay trắng tinh! Sau một cuộc bể dâu tại quê nhà, sau những giây phút nhấp nhô trên sóng biển, sau những mòn mỏi đợi chờ tại trại tỵ nạn, người Việt lên đường với gia sản của con số không, không gia đình, không công việc, không ngôn ngữ, không tài sản. 40 năm đã trôi qua, con số không của ngày xưa giờ đã chuyển mình, hóa ra phố Little Saigon của Quận Cam (bảng đường chỉ dẫn từ xa trên những siêu xa lộ Nam Cali). Bắc Cali với Vietnam Town lẫy lừng vươn cao chiếm gọn mấy góc phố. Ở đâu có người Việt, nơi đó có phố xá, quán ăn, nhà thờ, đình chùa của người Việt.

Tuổi trẻ Việt Nam thành công trong nhiều lãnh vực y như tuổi trẻ bản xứ. Tuổi trẻ Việt nói tiếng Anh và tiếng Việt giỏi như nhau. Tuổi trẻ Việt giáo sư trường đại học, bác sĩ tại bệnh viện, CEO tại các hãng xưởng lừng danh, Phó Thủ Tướng nước Đức. Dừng lại một phút để tự hỏi, tại sao lại có hiện tượng đũa thần đổi thay Cô Tấm lọ lem. Câu trả lời nằm ở lòng quyết tâm và sự say mê, hai trong số nhiều yếu tố đã góp phần vào hiện tượng Việt Nam tỵ nạn thành công. Bởi quyết tâm và say mê xây dựng lại một đời sống mới tinh trên vùng đất mới, gia đình Việt Nam, cả bố cả mẹ lên đường nhập cuộc. Trời thu cũng như trời đông, bố mẹ tỵ nạn chở con tỵ nạn tới trường; khi con biến mất sau khung cửa, bố mẹ quay ra nhập vào dòng xe cộ ngược xuôi hướng thẳng tới công xưởng làm Technician, Assembler, bưng tô phở, nửa đêm về sáng quét dọn quán rượu Mễ, và đủ các nghề để kiếm tiền nuôi con Việt. Ngày thứ Bẩy, Chúa Nhật, bố mẹ chở con tới trường Việt Ngữ học tiếng Việt. Bởi quyết tâm và say mê xây dựng một tương lai vững chắc cho mình và cho con cái, bố mẹ Việt Nam hy sinh tất cả. Bởi thế, tỵ nạn Việt Nam thủa xưa biến hình. Hành trình Việt Nam hải ngoại, 40 năm viễn xứ, hành trình thành công.

Tôi nhìn em một lần nữa. Lần này tôi nói:

— Nếu quyết tâm và đam mê, hy vọng rất nhiều hành trình em đang theo đuổi sẽ là một hành trình về đích với hoa quả thơm tho và ngọt ngào (thơm tho cho riêng hồn mình và ngọt ngào cho xã hội).

Em hỏi ngay, vầng trán thông minh lăn tăn gợn sóng:

— Tại sao lại có yếu tố hy vọng xuất hiện trong trường hợp này?

Tôi trả lời,

— Một bộ óc quyết tâm và một trái tim đam mê vẫn chưa đủ. Vẫn còn một yếu tố khác, một yếu tố chung cuộc, yếu tố này sẽ quyết định tất cả…

Em rõ ràng ngạc nhiên, háo hức chờ đợi,

— Cha ơi! Yếu tố nào vậy?

Tôi nói ngay,

— Ơn Trời!

Những con thuyền tỵ nạn đã cương quyết lên đường mặc dù biết trước hành trình tỵ nạn nhiều nỗi gian nan, tù tội, sóng biển, ngư phủ Thái, và xua đuổi từ phía chính quyền của những nước lân bang. Mà thật sự là như vậy, nhiều con thuyền gỗ xuất phát từ cửa biển Việt Nam đã không bao giờ cặp bến. Biển xanh đã biến thành mộ phần cho nhiều mảng thuyền tỵ nạn và thân xác Việt Nam, những máu đỏ da vàng quyết tâm lên đường bởi mê say hít thở không khí tự do. Những con thuyền còn lại cặp bến (dù có là rách nát!) hoàn toàn nhờ vào Ơn Trời. Không có Ơn Trời, thuyền tỵ nạn và thuyền nhân sẽ không bao giờ có cơ hội đặt chân lên bờ, bước đi những bước chân tự do (chữ Ơn này, xin ngắn gọn, cũng có thể gọi với chữ Duyên, Duyên Trời).

Cũng tương tự như thế, tất cả những thành công của cộng đồng Việt Nam tại Mỹ và trên thế giới cũng đều nhờ vào Duyên Trời. Có lòng quyết tâm, có niềm đam mê, nhưng không có Ông Trời tặng ban sức khỏe sung mãn và ngay cả những toa thuốc chữa lành vết thương (thân xác và tâm hồn), thương xá Việt Nam rộn ràng và tòa nhà chủ nhân danh tính Việt Nam cao ngất trên những đỉnh đồi sẽ không bao giờ xuất hiện trên mặt quả địa cầu. Chẳng trách chi, ông bà mình có câu, “Người tính không bằng Trời tính”.

Tôi dừng lại. Em và tôi cùng nhìn ra ngoài khung cửa văn phòng bởi những tiếng mưa rơi lộp độp trên mái nhà.

Mưa kéo về sa mạc nguyên một tuần rồi. Mưa từ sáng tới chiều, mưa tiếp tục tưới xanh xanh cỏ từ nửa đêm về sáng. Cả một vùng trời héo úa bỗng dưng bừng xanh hớn hở vui tươi. Trời xanh, đất xanh, cỏ xanh! Cả một bức tranh héo úa giờ này rộn ràng mầu xanh. Bởi mưa trời, cỏ khô chuyển mình thay đổi màu sắc. Giờ này xanh xanh ngút ngàn!

Một định luật, một tự nhiên, bao giờ cũng thế, cỏ khô quyết tâm nhô cao, vươn thẳng! Cỏ khô từ những ngày đầu tiên của tuần sáng thế ký luôn luôn mê man đắm say tia nắng mặt trời. Nhưng không có mưa trời, cỏ khô vẫn khô héo, vẫn úa tàn dù quyết tâm nhô cao để thỏa mãn niềm đam mê nắng trời. Nhưng, tạ ơn thiên đàng, bởi mưa trời đổ xuống, cỏ khô vươn cao, úa vàng chuyển mình hóa ra màu xanh xanh non vườn Địa Đàng.

Tôi bước ra sân, giơ hai bàn tay hướng lên trời cao hứng lấy những hạt nước mát lạnh của thiên đàng. Mưa trời tuôn đổ thấm ướt hai bàn tay tôi khô cằn từ bao lâu nay. Mưa trời đổ xuống, tôi giơ hai tay ra hứng lấy. Mưa trời đổ xuống đầy tràn lênh láng hai bàn tay tôi từ lâu khô khốc trống rỗng.

Tự nhiên đâu đó trong hồn tu sĩ sa mạc vang vang câu đồng dao ngọt ngào thơm mùi lúa chín,

Lạy Trời mưa xuống,
Lấy nước tôi uống,
Lấy ruộng tôi cầy,
Lấy đầy bát cơm,
Lấy rơm đun bếp.

Em mến,

Cuộc sống nào cũng là một hành trình của lên đường tìm kiếm. Có những hành trình thành công bởi nhờ vào một tấm lòng quyết tâm, một trái tim đam mê, và trên hết tất cả, nhờ vào Duyên Trời.

Có duyên với Trời, có tất cả.



Đến năm mười ba, tôi mới biết dành dụm những đồng tiền mừng tuổi cho một hy vọng mà, hôm nay, hy vọng đó, tôi gọi là một hạnh phúc. Hạnh phúc của tôi thường được tôi nhìn lại. Nhìn lại từ đoạn đầu đời tăm tối nhất, hồn nhiên nhất. Tôi không tin, không bao giờ tin nữa, thứ hạnh phúc người ta tưởng rằng tôi đang nắm chặt hay thứ hạnh phúc tôi còn mơ ước khi tôi bị đẩy xuống vực thẳm của phiền muộn. Hãy nói về những đồng tiền mừng tuổi thoát khỏi sòng bạc thơ ấu. Bạn đừng nghĩ thoát khỏi vì tôi sớm nhận chân dung của những tên cò mồi. Bầu trời của bất cứ một tuổi nhỏ nào cũng chỉ có một sắc mây hồng. Tâm hồn của bất cứ tuổi nhỏ nào cũng chỉ có một mùi thơm ngát. Tôi chẳng hề nghi ngờ những đồng tiền mừng tuổi phiêu lưu biệt tích trên chiếu cò tôm cá do sự dụ dỗ của bọn cò mồi. Thôi bạn làm ơn hiểu giùm, đến năm mười ba, tôi mới biết dành dụm những đồng tiền để mua mấy chú gà con.

Bạn nên theo tôi trở về một vùng quê hương Bắc kỳ của tôi. Sau phiên chợ Tết, những phiên chợ tháng giêng thật buồn tẻ. Người ta mãi hội hè đình đám, chả thiết đi chợ. Mãi tháng hai, chợ phiên mới đông dần. Những đồng tiền mừng tuổi nằm trong túi áo tôi sốt ruột quá thể. Chúng cứ đòi mua gà ngay lập tức. Với trẻ con nhà nghèo, tiền mừng tuổi quí lắm. Có đứa mua vải trắng, mua củ nâu về nhuộm may áo. Có đứa cưa cái rãnh cột nhà bằng tre bương, để dành tới cuối năm. Có đứa cho anh vay lấy lãi. Có đứa gửi mẹ giữ hộ. Riêng tôi, tôi bỏ túi, cài ba bốn chiếc kim băng, đêm ngủ tay khư khư nắm túi tiền.

Đêm đêm, chờ đợi phiên họp đêm, tôi đều mơ thấy bốn chú gà con. Một chú trống, ba cô mái. Tôi học thuộc lòng câu chọn gà của bà tôi. “Gà ri chân chì nuôi chi của ấy. Gà vàng chân vàng ai mắng cũng mua”.

Mơ ước, ở tuổi nhỏ, quả là nỗi thú tuyệt vời. Trong hàng trăm bài ngụ ngôn của La Fontaine, không một bài nào dở, trừ bài cô Perrette và cái bình sữa. Nhà thơ ngụ ngôn La Fontaine đã chế giễu sự mơ ước. Mơ ước có làm hại ai? Tôi đã mơ ước bốn chú gà của tôi lớn như thổi. Chừng sang thu, chú gà trống gáy ngọt và ba cô mái gại mỏ lia lịa. Rồi ba cô bằng lòng lấy một chú trống làm chồng. Ba cô nhẩy ổ đẻ. Tôi kiếm ba chiếc rổ rách bắc ổ đẻ cho ba cô. Mùa đông ba cô xuống ổ với ba đàn gà con xinh xắn. Tôi mơ ước đến đó. Tết tôi sẽ ở nhà ngắm gà của tôi. Hả hê chán.

Chợ phiên giữa tháng hai người ta mới bán trâu, bò, lợn gà. Tôi có mặt ở phiên chợ ấy. Đến chợ, tôi lần tới chỗ bán gà liền. “Gà vàng chân vàng ai mắng cũng mua”. Tôi đã dốc hết tiền mừng tuổi mua bốn chú gà vàng chân vàng. Mùa xuân quê nhà tôi, trời còn lạnh ngọt. “Tháng ba bà già chết rét”. Gà của tôi cần được sưởi ấm. Mấy ngày đầu, cho gà quen chỗ, tôi nhốt các chú trong chiếc nơm, lấy áo tơi che quanh. Tôi lén bốc gạo nuôi các chú. Những con gà lớn chỉ được ăn chút cám rồi bị đuổi khỏi sân, ráng kiếm sâu bọ mà nuôi thân. Lười biếng rình ăn với lợn, sẽ bị xua tàn nhẫn. Bốn chú gà của tôi là gà nhà giầu dù tôi là con nhà nghèo. Buổi sáng, đợi nắng khô sương tôi mới dám thả gà. Buổi chiều, mặt trời chưa lặn tôi đã lùa gà về chuồng. Ban đêm, nghe tiếng gà kêu, tôi vùng dậy đốt đèn thăm thú. Tôi ghét chuột, ghét cáo, ghét luôn mèo. Ba tên này rình mò giết chết gà của tôi. Nhưng săn sóc kỹ mấy, chưa hết mùa xuân, chú gà trống đã khoác áo tơi. Đôi cánh chú trề xuống chấm thân. Chú chê ăn. Chú đứng một chân. Rồi chú lăn kềnh ra. Chú bị cúm, chú chết thảm. Tôi suýt khóc. Ba cô gà mái may mắn thoát bệnh. Sang hạ, ba cô trổ mã, đẹp gái ra phết. Tội nghiệp chú gà trống. Giá chú còn sống, chú đã vỗ cánh gân cổ tập gáy te te. Bây giờ, ba cô gà mái đã biến thành ba nàng gà và chịu chung số phận hẩm hiu của những con gà lớn. Ba cô từ giã thời thơ ấu. Phải giã từ thời thơ ấu, ngay loài gà cũng cơ cực.

Một buổi tối cuối hạ, điểm gà trước khi chúng lên chuồng, tôi đã thấy mất một nàng gà mái của tôi. Có đứa ăn cắp một chút hạnh phúc nhỏ nhoi của tôi. Nàng gà mái không bỏ nhà đi theo trai đâu. Người ta đã bắt cóc nàng. Tôi buồn cho đến hôm hai nàng gà mái còn lại chịu nằm trên ổ đẻ. Tôi theo dõi hai nàng. Mẹ tôi bảo nhìn gà đẻ sẽ bị lang ben. Tôi không sợ lang ben. Tôi mở căng mắt xem gà đẻ. Và tôi thấy rõ chiếc trứng gà con so rơi xuống ổ lót rơm. Và tôi sung sướng nghe những tiếng cục ta cục tác của hai nàng gà mái rộn ràng một thuở mười ba. Chẳng bao giờ tôi được nghe một thứ âm thanh nào kỳ diệu hơn, thứ âm thanh đã làm tôi nao nức, quên hẳn nỗi buồn. Hình như đời tôi bị bủa vây bằng sầu buồn. Tôi không có niềm vui liên tục. Bây giờ, vẫn thế thôi. Vẫn là kẻ dò mìn hạnh phúc. Là kẻ khốn khổ cầm trong tay từng khúc hoan lạc đứt rời. Tôi, gã phù thủy, bắt những nhân vật tiểu thuyết của mình đau đớn hay vui tươi, giàn xếp cho nhân vật của mình một đoạn kết bi thảm hay hào hùng hay an phận hay hạnh phúc những đã không đủ phép tích giàn xếp cho chính đời mình một sợi hạnh phúc nối dài! Những tiếng kêu cục ta cục tác của gà đẻ xuống ổ mới làm tôi sung sướng hôm qua đã đem theo xót xa vì tiếng quang quác não nề của một nàng gà bị cáo cắn chết tha đi. Tôi ngày nay tội nghiệp tôi ngày xưa. Nhưng nếu được sống lại ngày xưa, tôi ngày xưa sẽ tội nghiệp tôi ngày nay nhiều hơn. Nhiều lắm. Vô cùng.

Giữa thu, nàng gà mái sống sót với hy vọng của tôi cho tôi một đàn gà nhỏ. Đàn gà nhỏ. Đó là những bà tiên bay quanh giấc ngủ thiếu thời của tôi. Những bà tiên dạo nhạc ru tôi ngủ. Những bà tiên an ủi đứa trẻ nhà nghèo cô độc. Những bà tiên nuôi ước mơ giùm tôi. Những bà tiên tuyệt đẹp dưới nắng thu vàng. Ôi, những bà tiên dạo ấy sao nỡ xa lánh cuộc đời đầy đặc phiền muộn của tôi hôm nay. Có lẽ, bởi còn có mùa đông. Và bởi có mùa đông nên những bà tiên rét mướt, những bà tiên lười bay, những bà tiên ủ rũ. Mùa đông cuộc đời tàn nhẫn cả với những bà tiên. Mùa đông thổi một luồng gió độc ác. Những bà tiên khoác áo tơi, đứng im lặng bằng một chân, hết khiêu vũ, hết ca hát. Rồi những bà tiên thay nhau chết. Và tôi từng ngày, chôn những bà tiên gần nhau. Tôi xây một nghĩa trang mơ ước. Và tháng chạp thảm sầu, tôi chôn luôn mẹ của những bà tiên. Tưởng tượng đứa trẻ nhà nghèo chôn hy vọng của mình, bạn có buồn không? Tết năm mười bốn, những đồng tiền mừng tuổi lại dùng để mua bốn chú gà con. Rồi nghĩa địa mơ ước lại biến thành thiên đường mơ ước. Và cứ vậy, ước mơ đều đều…

Tôi lớn khôn, không còn thích nuôi gà nữa. Cũng chẳng còn ai cho tôi những đồng tiền mừng tuổi. Tôi tự cho tôi những giọt nước mắt ví như những đồng tiền. Tôi nuôi một hy vọng khác. Tôi thấy những giọt nước mắt mỗi năm một ít đi. Xuân này, những giọt nước mắt khô cạn. Mà hạnh phúc, bạn ơi, mãi mãi cứ gặp luồng gió độc ác của mùa đông cuộc đời.



Hòa vào niềm vui chung của dân tộc, người Công Giáo cũng ăn Tết giống như mọi người, nhưng lại mang những nét đặc sắc riêng biệt, phản ảnh cho một niềm tin sâu xa.

Thực vậy, vào những ngày trước Tết, người Công Giáo cũng đi Chợ Tết và mua sắm những thứ cần dùng. Người Công Giáo cũng dọn dẹp và trang hoàng nhà cửa, để sẵn sàng tiếp đón họ hàng, cũng như bè bạn, tới viếng thăm. Người Công Giáo cũng chúc tuổi ông bà, cha mẹ và lì xì cho con cháu.

Đây là dịp để đoàn tụ gia đình. Con cháu đi làm, hay đi học xa, đều trở về xum họp với những người thân yêu. Bữa cơm gia đình thường được tổ chức, có nhà vào ngày ba mươi Tết, có nhà vào ngày mồng một, mồng hai hay mồng ba Tết, nhờ đó mà tình nghĩa ruột thịt giữa ông bà, cha mẹ, con cháu và anh chị em được thêm khắng khít.

Hồi còn bé, cứ sáng mồng một, mấy anh chị em chúng tôi đều được cha mẹ sai mang đồ lỡi đi tết các bác và các chú, các cô và các dì. Đi suốt buổi sáng không hết vòng họ hàng bà con, thì ban chiều đi tiếp. Tới nhà nào, chúng tôi cũng phải chúc tuổi và tới nhà nào, chúng tôi cũng được ăn bánh mứt và nhất là được nhận tiền lì xì. Tiền lì xì, thường gửi cho mẹ giữ hộ.

Trong những ngày Tết, người Công Hiáo thường tới Nhà Thờ để tham dự Thánh Lễ. Và Hội Đồng Giám Mục Việt Nam cũng đã qui định:
- Tối Giao Thừa: Thánh Lễ Tạ Ơn.
- Mồng Một Tết: Cầu Bình An Cho Năm Mới.
- Mồng Hai Tết: Kính Nhớ Tổ Tiên, Ông Bà, Cha Mẹ.
- Mồng ba Tết: Thánh Hóa Công Việc Làm Ăn.

Hầu như các Nhà Thờ tại Việt Nam đều tổ chức Thánh Lễ Giao Thừa. Trong Thánh Lễ này, chúng ta cảm tạ Chúa vì những ơn lành Chúa đã ban cho chúng ta trong suốt một năm sắp qua đi, đồng thời chúng ta phó thác những ngày tháng sắp tới cho bàn tay quan phòng và yêu thương của Ngài. Chúng ta cũng cám ơn tất cả những người, bằng cách này hay cách khác, đã nâng đỡ, ủi an và góp phần xây dựng cuộc đời chúng ta.

Như trên đã trình bày, trong đêm giao thừa, sau khi đi lễ tại đình chùa, người Việt Nam có tục hái lộc đem về nhà. Người Công Giáo, sau khi tham dự thánh lễ giao thừa, cũng hái lộc đầu xuân. Không biết xuất phát từ đâu, mà trong khoảng thời gian hai ba chục năm nay, giáo xứ nào cũng tổ chức cây mùa xuân để cho mọi người tới hái lộc.

Lộc ở đây, không phải là một cành cây phải hái, phải bẻ, nhưng là một Lời Chúa được in rất đẹp trên giấy và được cuộn lại cũng rất đẹp. Lời Chúa được chọn theo chủ đề của mỗi năm, chẳng hạn như về gia đình, đức tin, truyền giáo… Mỗi gia đình nhận một Lời Cha, là như ý lực sống cho suốt cả một năm. Tờ Lời Chúa, hay lộc đầu xuân này, được mang về nhà và được để ở gần bàn thờ, để mọi người trong nhà cùng suy gẫm và thực hành.

Ngày Mồng Một Tết, người Công Giáo cầu bình an cho năm mới. Tương lai còn đang ở phía trước, chúng ta không biết những gì sẽ xảy ra, nhưng chắc chắn là sẽ có nhiều khó khăn vất vả. Chúng ta cầu xin Chúa giữ gìn bản thân, gia đình, giáo xứ và quê hương đất nước được bình an bằng tình yêu thương của Ngài. Trong thánh lễ này, cộng đoàn dân Chúa cũng chúc tuổi lẫn nhau.

Tuy nhiên, chúng ta cầu chúc cho nhau những điều tốt đẹp là một chuyện, còn thực hiện được những lời cầu chúc ấy lại là một chuyện khác. Vì thế, chúng ta cũng xin Chúa thực hiện thay cho chúng ta những lời cầu chúc tốt đẹp nhất, chúng ta gửi đến cho nhau trong dịp đầu xuân năm mới.

Ngày Mồng Hai Tết, người Công Giáo kính nhở tổ tiên, ông bà, cha mẹ. Vì thế, vào những ngày trước Tết, các gia đình thường sửa sang lại phần mộ của những người đã khuất, người ta trưng bông, đặt những giò hoa tại phần mộ. Và ngày mồng hai Tết, các giáo xứ thường tổ chức ít là một Thánh Lễ ở nghĩa trang.

Rất nhiều lần tôi đã thực sự xúc động khi tham dự Thánh Lễ ở nghĩa trang. Đứng bên cạnh phần mộ của những người thân yêu, hồi tưởng lại những kỷ niệm của một thời đã cùng nhau chung sống và chia sẻ. Với làn khói hương lan tỏa trong bóng chiều nhẹ buông, lời nguyện cầu trong bầu khí thánh thiện này quả thật là sốt sắng. Tôi cảm thấy như người thân yêu đang ở rất gần, hay như lời một bài hát của Trịnh Công Sơn: “Người chết nối linh thiêng vào đời”. Ngày tàn, những ngọn nến được thắp sáng trên các phần mộ, như muốn chiếu tỏa cho một niềm tin và sưởi ấm cho những người còn đang phải chèo chống giữa giòng đời đầy sóng gió.

Ngày Mồng Ba Tết, người Công Giáo thánh hóa công việc làm ăn. Chúng ta cầu xin Chúa cho mưa thuận gió hòa, để những lao công vất vả của chúng ta được mang lại những thành quả tốt đẹp. Ý nguyện của ngày mồng ba Tết khiến tôi nhớ tới lời của Thánh Phaolô: Tôi trồng, anh Apôlô tưới, nhưng Thiên Chúa mới làm cho lớn lên. Chỉ một cơn bão, cũng đủ để phá hủy mùa màng, giật sập nhà cửa, làm tiêu tan sản nghiệp chúng ta đã chắt chiu vun trồng. Nhưng chuyển hướng cơn bão, để nó không gây nên những thiệt hại, lại là chuyện quá dễ dàng đối với quyền năng của Chúa.

Đồng thời, trong khi thánh hóa công việc làm ăn, chúng ta cũng nhận ra những giá trị của lao động. Thực vậy, nhờ lao động, chúng ta mới có được chén cơm manh áo và những tiện nghi cho cuộc sống, như tục ngữ đã nói: Tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ. Nhờ lao động, chúng ta mới trả nợ được cho đời, bởi vì chúng ta sống là nhờ vào người khác rất nhiều, và bây giờ bằng những thành quả của lao động, chúng ta giúp đỡ họ và góp phần nhỏ bé vào việc xây dựng một xã hội giàu mạnh. Nhờ lao động, chúng ta mới tránh được những thói hư tật xấu, bởi vì nhàn cư vi bất thiện.

Hơn thế nữa, nhờ lao động, chúng ta cộng tác với Thiên Chúa trong công trình sáng tạo, tiếp nối những gì Ngài đã thực hiện, để làm đẹp cho bộ mặt trái đất. Và nhất là, nếu chúng ta biết làm việc vì lòng yêu mến Chúa, thì những công việc tầm thường và nhỏ bé nhất, cũng sẽ có được một giá trị cứu độ, cũng sẽ trở thành những lời kinh xuất phát từ lòng cuộc đời. Bởi vì lòng yêu mến ấy, chính là một cây đũa thần, biến những lao công của chúng ta trở thành một của lễ sống động dâng lên Chúa, biến những vất vả của chúng ta trở thành những sợi chỉ vàng, dệt nên tấm vải cuộc đời và làm cho nó có một giá trị to lớn trước mặt Chúa.

Và như vậy, cái Tết thật có ý nghĩa và trong Năm Mới, chúng ta sẽ được bình an và hạnh phúc.


(Giáo Sỹ Việt Nam - Số 242 - Chúa nhật 15.02.2015)




Bên dưới là bài chia sẻ của thầy Tuấn, hiện đang mục vụ tại đảo quốc Papua New Guinea.

***

Vậy là sau gần 1 tháng, mạng điện thoại đã được nối lại. Xin chia sẻ những ghi chép về một Chúa nhật nơi đây....

NHẬT KÍ MỘT CHÚA NHẬT....


Sau Noel, hai cha khách ra giúp Giáng sinh đã rời đảo, hiện tại không có vị linh mục nào, nên mình là người duy nhất cử hành phụng vụ Lời Chúa cho cả hai giáo xứ vào mỗi Chúa nhật. Đúng là không có chó nên buộc mèo phải ăn....

Buổi chiều hay mưa, nên cũng như mọi khi, 9g sáng thứ bảy, từ Gusaweta mình chạy qua Wapipi bằng xe đạp. Nhưng hôm nay ơn Chúa tuôn đổ sớm hơn, mới đi được chừng 10 phút thì trời đổ mưa tầm tã. Một lát sau con đường ngập trong nước hoàn toàn. Vốn đã gồ ghề vì đá san hô, nay nó còn gồ ghề hơn nữa vì không biết đường nào tránh những tảng đá lớn hay những hố nước sâu. Dưới trời mưa, con ngựa sắt của mình lại giở trò chơi xấu mình. Vì cả hai bánh đều không có tấm “dè” nên bùn, đất, cát cứ thế bắt lên mình tới tấp, cả trên dưới trước sau đều đầy bùn đất, không chừa chỗ nào. Gần một tiếng đồng hồ chiến đấu dưới trời mưa, mình cũng tới được nhà xứ Wapipi.

Bếp nhà xứ trống trơn, thực phẩm dành cho cha khách và thầy đại chủng viện ra giúp Giáng sinh đã hết, chỉ còn nước tương, giấm và muối. Cũng may còn sót lại mấy củ khoai lang trong xó bếp. Trời mưa quá chẳng ai đến nhà xứ chơi, cho dù trên đường tới đây, nhiều người thấy mình và chào hỏi. Vấn đề chính là không ai quan tâm chuyện nhà xứ còn gì để ăn hay không, hoặc họ tưởng nhà xứ có nhiều đồ ăn (người dân vẫn thường nghĩ vậy). Nắm bắt tình hình này, mình luộc mấy củ khoai lang làm bữa trưa, bữa tối và sáng hôm sau.

Chiều trời tạnh mưa, mình đi lòng vòng thăm bà con xung quanh, hỏi han, trò chuyện linh tinh. Có mấy chị hiền mẫu, với sự tinh tế vốn có của phụ nữ, tỏ ra quan tâm hơn chuyện ăn uống của mình, nên mới hỏi thăm. Mình thật tình trả lời rằng có mấy củ khoai, mình luộc ăn lúc trưa và còn đủ đến ngày mai. Thế là mấy chị hoàn toàn yên tâm về chuyện ăn uống. Và quả thật, tối và sáng hôm sau, khoai là lương thực nuôi sống mình.

Sau khi cử hành phụng vụ Lời Chúa ở nhà thờ giáo xứ Wapipi, mình đạp xe đến một giáo họ của giáo cứ Wusaweta để cử hành tiếp “tăng hai”. Bởi vì sự chậm trễ của người dân cộng với nhiều thông báo của mấy ông ban điều hành, gần 12 rưỡi mình mới xong “tăng hai”. Quả là thấm mệt và bụng đói.

Ở đây có một tập tục phổ biến: cuối nhà nguyện người ta để cái thau, người dân mang theo của lễ để dâng trong phần dâng lễ. Đa số người ta mang đến khoai, rau, dừa, chuối, trầu, cau... Sau khi kết thúc Phụng vụ, ông trưởng giáo họ kêu mình mang của lễ về. Nhìn trong thau có khoai là chính, chuối, dừa, rau (một loại phổ biến ở đây nhưng Việt Nam không có, rất giống lá khoai mì, nhớt nhớt giống mồng tơi). Làm sao đèo khoai, dừa, chuối về được, mình để lại cho ông trưởng giáo họ, chỉ cầm về hai bó rau.

Bụng trống rỗng từ lâu, nên dừa là thứ có thể giải quyết vấn đề lúc này. Mình không ngại chặt dừa uống nước và ăn cơm dừa tại chỗ (xem hình). Vậy là đủ năng lượng để đạp xe khoảng 1 tiếng về nhà dưới trời nắng giữa trưa trên con đường vắng không một bóng người.

Tạ ơn Chúa, một củ khoai lúc sáng sớm và một trái dừa ban nãy cũng đủ để đưa mình về nhà lúc gần 2g chiều. Sau khi cất xe và xếp đồ đạc, dù mệt và đói (trái dừa đã hoàn thành nhiệm vụ của nó) mình phải lo giặt đồ đạc lẫn ba lô, vì hôm qua mưa ướt và bẩn. Đang giặt thì có tiếng gõ cửa. Con gái ông thư kí hội đồng giáo xứ đem qua một ít đồ ăn được để trong tô và gói lại cẩn thận bằng một miếng vải (theo cách thức thường làm của người dân ở đây). Thấy mình về trễ, nên họ chuẩn bị đồ ăn cho mình. Thật là cảm động! Tuy không biết bên trong là gì nhưng mình chỉ đặt đó để đi giặt cho xong.

Xong xuôi mọi việc, ngồi vào bàn ăn, mình mở tô đồ ăn ra. Khoai! Một tô có 4 củ khoai luộc, được lựa chọn cẩn thận: 4 củ, 4 màu: vàng, trắng, tím và đỏ (khoai lang ở đây rất đa dạng). Không có gì ngạc nhiên lắm, vì khoai là thực phẩm chủ yếu của người dân. Thật sự mình không nuốt nổi khoai nữa, đã 3 bữa toàn khoai rồi! (Làm mình nhớ lời nhạc chế từ một bài ca về Quảng Bình: Quảng Bình quê ta khoai khoai toàn khoai!)

Phải nấu gì đó ăn thôi! Không có gì khác hơn là mì gói với 1 bó rau mình đem về. 15 phút sau mình đã có bữa trưa ngon lành, không phải khoai. Một tô mì gói với rau nhiều hơn mì đến nỗi phải vạch lá tìm mì. Nhưng đó là bữa ăn ngon tuyệt vời có lẽ hơn mọi món ăn cao sang đắt đỏ nhất. Tạ ơn Chúa đã ban cho mình những điều tuyệt vời từ những điều đơn giản như thế!

Bụng nghĩ thầm: tối nay phải nấu một bữa ăn ra trò mới được! Nhưng nhìn lại, chỉ có gạo và mấy lon cá hộp, cùng với 1 bó rau đem về lúc nãy. Dù vậy, tối nay cũng sẽ là một bữa ăn ngon như mọi khi thôi.

Viết đến đây thì cũng đã 3:30 chiều. Cả xứ đã kéo đến để chơi bóng chuyền (cả nam lẫn nữ), cổ vũ kín cả sân nhà thờ. Họ còn đem theo cau, bắp luộc, thuốc lá để bán nên lúc này dưới sân đang rất ồn ào náo nhiệt, ra sân chơi thôi! Vẫn còn đủ sức để chơi được vài set bóng chuyền đó nha!

À, 6:30 tối nay còn cử hành phụng vụ Lời Chúa “tăng ba” nữa chứ!