Tác phẩm sáng tác năm 1990, của nữ họa sĩ người Nga Suvorova Olga (sinh năm 1966) này đang thu hút sự quan tâm của giới phê bình nghệ thuật Âu-Mỹ, và được xem là tác phẩm “Truyền tin” tiêu biểu của kỷ nguyên hậu hiện đại.


Theo nhiều nhà phê bình, tác phẩm, là sự hòa trộn tuyệt vời các yếu tố truyền thống với các yếu tố đương đại; các yếu tố tượng trưng với các yếu tố hiện thực; và cả các yếu tố thánh thiêng với các yếu tố trần tục. Với sự hòa trộn như vậy, trường nghĩa của các tác phẩm mở rộng mênh mông. Điều khiến các nhà phê bình băn khoăn nhất trước tác phẩm của Suvorova Olga, chính là bên cạnh dáng vẻ tự tin, mạnh mẽ của Đức Trinh nữ, các vị Thiên sứ xem ra lại quá tư lự. Nhiều người cho rằng, đây có thể là một ẩn dụ chính trị!



Hỏi: Xin cho con hỏi, tại sao lại có nhiều tôn giáo cùng tồn tại đến như vậy, và giữa rất nhiều tôn giáo (Hội Thánh Đức Chúa Trời Mẹ gì đó cũng tự xưng là tôn giáo), làm sao chúng ta biết đâu là tôn giáo thật? Trước hàng loạt những vấn đề nhức nhối liên quan đến tôn giáo hiện nay, cha/thầy có suy nghĩ gì không? Con xin cảm ơn.



Trả lời:

Chào bạn,

Những nghiên cứu của lịch sử cho chúng ta biết rằng từ rất lâu, khi con người vừa xuất hiện, thì tôn giáo cũng đã ra đời. Ban đầu, có thể do hoàn cảnh tác động. Người xưa thấy mình quá nhỏ bé trước các sức mạnh của tự nhiên nên tự phong thần cho chúng (thần mây, thần mưa…). Nhưng khi trình độ hiểu biết của con người đã đạt đến những đỉnh cao vượt bậc, tôn giáo vẫn cứ tồn tại, và thể hiện ở một mức độ cao sâu hơn. Có không ít những nhà bác học, nghiên cứu khoa học đại tài là những người theo tôn giáo. Điều đó cho thấy, sự hiện diện của tôn giáo phản ánh một trực giác thiêng liêng của con người. Nó là cái ở bên trong con người bộc phát ra, chứ không phải bị áp đặt từ bên ngoài. Con người và niềm tin luôn đi đôi với nhau. Chẳng ai sống mà có thể không tin cái gì đó, kể cả những người tự xưng là vô thần.

Các nhà tâm lý học cũng đồng ý với nhau rằng nhu cầu tâm linh là một trong những nhu cầu của con người, và chính nó cũng là một trong những yếu tố làm cho con người khác với các giống loài khác. Trong tất cả các sinh linh hiện diện trên đời này, chỉ có con người là có tôn giáo. Hay nói cách khác, chỉ con người là có trực giác về một thế giới khác, vô hình, cao hơn mình, huyền nhiệm hơn mình, cái mà mình không thể chạm sờ trực tiếp bằng vật chất đơn thuần. Con người là loài duy nhất có thể tương tác với sự huyền bí thâm sâu vượt ra ngoài thế giới hữu hình. Bởi tôn giáo vốn dĩ gắn liền với những điều ta không thấy, nên ta vẫn thấy đâu đó những nhóm người giả danh tôn giáo, truyền dạy những điều sai lạc, làm ảnh hưởng đến thanh danh của những tôn giáo chân chính, đến cuộc sống của người khác và cũng đồng thời huỷ hoại cuộc sống của chính họ.

Vậy căn cứ vào đâu mà chúng ta có thể phân biệt giữa tôn giáo chân chính và tôn giáo giả tạo?
 Sẽ có nhiều tiêu chí, nhưng chắc là nhiều người sẽ đồng ý với ba điểm này.

Trước hết, một tôn giáo chân chính sẽ có một nền tảng giáo lý vững chắc, có căn cứ, được lý trí kiểm chứng, chứ không bao giờ chủ trương một kiểu giáo lý mơ hồ, sai lạc. Một tôn giáo chân chính không tự mình bịa ra giáo lý, nhưng lãnh nhận nó từ Thần của mình và chia sẻ nó với người khác trên cơ sở tôn trọng tự do của người đó, chứ không ép buộc họ phải tin giống mình.

Thứ đến, giáo lý đó, dù có thể có nhiều điểm huyền nhiệm khiến mình chưa thể hiểu hết, nhưng chắc chắn nó không bao giờ huỷ hoại cuộc sống hiện tại của tín hữu. Nó dạy người ta yêu thương nhau, phục vụ nhau, nối kết người ta với nhau trong tình thân ái, chứ không bao giờ gây chia rẽ hay thúc đẩy người ta đến chỗ đi ngược lại với luân thường đạo lý hay truyền thống tốt đẹp.

Cuối cùng, tôn giáo chân chính sẽ sinh ra những chứng tá sống động và tốt đẹp cho đời. Từ tôn giáo ấy, sẽ xuất hiện những con người với lối sống khiến người đời phải cảm phục vì những nhân đức anh hùng của họ. Đó là những con người đã sống giới luật yêu thương đến mức độ trỗi vượt, họ làm được những điều cao cả, phi thường qua cung cách hành xử và cuộc sống của họ luôn toát lên một niềm vui tự tâm, đồng thời cũng lan truyền nó đến cho người khác.

Trong thời gian gần đây, Giáo Hội và xã hội Việt Nam đối diện với nhiều cuộc tấn công, từ sức lan tràn gây biết bao thương tổn của cái gọi là Hội Thánh Đức Chúa Trời Mẹ, đến những tranh chấp đất đai tôn giáo, rồi cả những hoạt động nghệ thuật bị cho là xúc phạm đến tín ngưỡng của tín hữu Kitô giáo. Đây là điều chẳng ai mong muốn. Nhưng nếu nhìn một cách tích cực, ta có thể nói rằng cứ mỗi lần có biến động gì đó liên quan đến tôn giáo của mình, chúng ta lại được mời gọi để đọc lại đức tin của bản thân, xem mình đã sống đúng như những gì mình tin chưa. Lên tiếng (trong tinh thần đối thoại và tôn trọng nhau, chứ không phải chửi bới) để giúp người không hiểu biết chấn chỉnh lại hành vi không đúng của mình là điều cần thiết, nhưng ở một phương diện nào đó, chính nó cũng giúp ta soi lại mình. Chúng ta không thích người khác xúc phạm đến Thiên Chúa, còn mình, mình đã có thái độ đúng dành cho Thiên Chúa của mình chưa? Người ta đem biểu tượng Thánh Giá của mình ra bỡn cợt, còn mình, mình có hiểu và sống ý nghĩa của Thánh Giá Chúa trong cuộc đời mình chưa? …

Những vấn đề mà chúng ta đang gặp phải giúp người Kitô hữu nhận ra rằng mình cần sống đức tin của mình một cách sâu sắc hơn, chứ không chỉ ở bề mặt. Đi lễ, đọc kinh, lần chuỗi… là cần thiết nhưng nó phải giúp mình đi vào tương quan gắn kết với Chúa, đưa mình đến gần Chúa, từ đó mình được biến đổi để mỗi ngày nên giống Chúa hơn. Việc giữ đạo phải giúp chúng ta có con tim mềm mại hơn, biết yêu nhiều hơn, đối đãi tốt với người khác hơn. Nếu không, nó chỉ là những điều vô ích. Vì tôn giáo là một nhu cầu thiết yếu và không thể xoá bỏ, nên dù nó có bị đàn áp thế nào, nó vẫn sẽ tiếp tục tồn tại như lịch sử đã chứng minh cho chúng ta thấy. Những tôn giáo không chân chính ắt sẽ sớm bị diệt vong, vì nó không tìm thấy đất sống cho mình. Còn nếu mỗi người Kitô hữu có thể hiểu và sống được giáo lý tốt đẹp mà Đức Giêsu đã truyền lại thì tính chân chính là của tôn giáo mình sẽ được củng cố và thừa nhận nhiều hơn. Người khác nhìn vào sẽ được thu hút và muốn noi theo.

Thiết tưởng rằng đây là một hành vi truyền giáo hữu hiệu và tuyệt vời nhất, và cũng là điều mà Đức Giêsu đã truyền dạy chúng ta phải làm trước khi Ngài về trời.

Thân ái,

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ
Nguồn: dongten.net




GIÚP CON LUÔN DÕI BƯỚC CHÂN


Mc 9,29-36

" Phần con nào hãy lắng nghe
Con Người sắp bị nộp tay người đời" 
Môn đệ không thể hiểu Người
Vì say men với bao lời tán dương.

Theo Ngài để bước trên đường
Đích là thập giá chẳng tường vinh quang
Ảo tưởng về những hào quang
Sa chân vào chẳng biết đàng về đâu.

Đối diện với những khổ đau
Chiên vào giữa sói, gối đầu cũng không
Mỗi ngày bao việc đo đong
Sướng vui hạnh phúc bão giông cuộc đời.

Điều lành ta nhận từ Người
Điều dữ lo sợ ý thời đuổi xua
LỜI hôm nay Chúa dẫn đưa
Giúp con tín thác ơn mưa móc Người.

Chúa trao thập giá cuộc đời
Ngài đo, Ngài đặt tính thời sức ta
Tin yêu thập giá nở hoa
Ơn Ngài đau khổ chính là hồng ân.

Giúp con luôn dõi bước chân
Hành trình của Chúa gập ghềnh Calve.
Lắng nghe Lời với đam mê
Thực hành Lời dẫn nẻo về bình an.


* Maria Huỳnh Thị Thu Hương (Gx.Cây Rỏi)

Hai ngàn năm trước vì “Tình”
Giêsu bé bỏng giáng sinh xuống trần
Từ nay hết thảy muôn dân
Nguồn sinh sống mới ngập tràn niềm tin

Chắp tay khấn nguyện thầm xin
Dâng lời cảm tạ ân tình đơn sơ
Hạ sinh giữa thế bùn nhơ
Bò lừa cỏ lót đón chờ hào quang
Thiên thần hát khúc ca vang
Tiếng cười chen chút bình an cõi đời

Nhẹ buông nốt nhạc thảnh thơi
An lành đêm thánh ý Trời hiển vinh
Ánh đèn lấp lánh lung linh
Cất cao từng nhịp lời kinh kết hòa.


Tập 6 Mãi Mãi Thanh Xuân đã mang đến một câu chuyện buồn của người phụ nữ tài hoa, có số phận đầy gian truân, trắc trở. Thế nhưng, ẩn sau đó là một tinh thần vươn lên mạnh mẽ để tìm kiếm niềm hạnh phúc khi về già.


Hơn nửa đời người chịu nhiều sự tổn thương


Bà Trần Huỳnh Xuân vốn là một người phụ nữ tài hoa. Thời còn trẻ bà đã học rất giỏi, biết tận 3 thứ tiếng Anh, Pháp, Hoa. Hơn cả bà rất thích đạo Thiên Chúa vì thế có lần bà đã lén gia đình để đi tu. Nhưng thật không may, ba của bà phát hiện bắt bà về và ép gả cho một gia đình nọ.

Tưởng chừng hạnh phúc sẽ đến với người con gái trí tuệ, giỏi giang, nhưng không ngờ bà gặp phải gia đình chồng vô phước. Cuộc sống hôn nhân không mấy hạnh phúc vì bà bị chồng đối xử tệ bạc, thậm chí ông còn làm tổn thương cả thể xác lẫn tinh thần bà khi thấy bài thơ bằng tiếng Pháp mà bà viết. Cũng sau lần đó, vì quá sợ hãi bà bồng theo con nhỏ chạy đến cô nhi viện để trốn.

Thời gian trôi qua, khi các con đã khôn lớn trưởng thành, người ta sẽ nghĩ rằng bà sẽ được sung sướng hơn khi có các con chăm sóc. Nhưng một lần nữa bà lại thất vọng khi những người con dần xa lánh, không quan tâm hỏi han gì đến cuộc sống của bà. 

Và mãi đến tận bây giờ bà vẫn lủi thủi sống cô đơn một mình trong căn nhà nhỏ ở TP.HCM. Hơn 22 năm không gặp con cái, không bạn bè người thân, câu chuyện ấy mỗi khi kể đến đều khiến người nghe cảm thấy chua xót cho người phụ nữ tài hoa.

Organ – niềm an ủi khi về già

Cuộc đời nhiều bất hạnh là vậy, nhưng bà Huỳnh Xuân chưa bao giờ có ý định từ bỏ cuộc sống của mình. Bà đi dạy tiếng Anh từ năm 18 tuổi đến tận bây giờ khi đã 81 tuổi bà vẫn còn theo đuổi công việc này. Sức khỏe không còn được như trước nhưng vốn thông thạo tiếng Anh, Pháp nên bà được rất nhiều phụ huynh và học sinh yêu thương, tin tưởng. Họ tìm đến tận nhà để được bà dạy học. Đó cũng là động lực giúp bà vượt qua được những khó khăn, vấp ngã trong cuộc sống.

Bà từng tâm sự rằng, bà rất thích dạy, rất yêu nghề và thương mấy đứa trẻ, nên dù có ra sao thì bà vẫn sẽ dạy cho những học trò đáng yêu của mình. Mấy tháng trước đây, bà Xuân không may bị té nên không thể chạy xe đạp nữa, bà chuyển sang đi xe buýt và đi bộ. Không chỉ dạy tiếng Anh, Pháp cho học sinh mà mỗi tối cuối tuần bà đều đến nhà tình thương để dạy kèm cho các bé ở đây.

Ngoài công việc dạy học, 2 năm trở lại đây bà bắt đầu học đàn organ loại nhạc cụ mà bà yêu thích từ lâu nhưng mãi vẫn chưa có cơ hội để học. Sở dĩ bà thích organ như vậy là vì âm thanh từ chiếc đàn như nói lên tiếng lòng của bà, giúp bà quên đi những nỗi buồn trước kia cũng như có thêm động lực và niềm tin vào cuộc sống. Trước đây bà từng học qua Mandolin nhưng do sức khỏe yếu bà không thể cầm những loại nhạc cụ khác mà chỉ có đàn organ là thích hợp nhất.

Trong khoảng thời gian theo học đàn, bà rất lo sợ một ngày nào đó mà cô giáo không còn đủ kiên nhẫn dạy sẽ bỏ bà. Bà luôn nghĩ bản thân tiếp thu chậm, tai lãng, tay run nên cứ năn nỉ cô giáo đừng có bỏ mình bởi vì bà sẽ không bao giờ bỏ cuộc. Có lẽ vì những lời như tận đáy lòng ấy mà cô giáo dạy đàn đã gắn bó với bà hơn 2 năm, cô còn mua tặng riêng bà một cây đàn organ để bà có thể tự tập đàn ở nhà. Chia sẻ trong chương trình, bà Xuân còn bật mí mỗi khi buồn bà hay đi tập gym khiến ban bình luận vô cùng ngạc nhiên và thích thú.

Bà không thích tập dưỡng sinh như người khác vì nó rất lâu, bà thích tập gym hơn vì nó không chỉ giúp bà rèn luyện sức khỏe mà còn chữa được bệnh đau nhức khớp bấy lâu trong người. Không những vậy, huấn luyện viên ở đây còn tận tình hướng dẫn bà từng li từng tí lại không nhận tiền nên bà thường xuyên lui tới khi có thời gian.

Có thể nói, tuy bà không được hưởng phước từ gia đình nhưng lại may mắn gặp được những người có tấm lòng tốt giúp đỡ bà trong lúc khó khăn.

Ở cái tuổi xế chiều, bà đã tìm thấy người bạn tinh thần từ chiếc đàn organ, niềm vui với những cô cậu học trò nhỏ tuổi và cả những người xung quanh, thế nên dù trước đây bà có trải qua bao nhiêu chuyện buồn thì bây giờ cuộc sống này cũng đủ để khiến bà mãn nguyện.

Nguồn: https://high.vn/mai-mai-thanh-xuan-chan-dung-cu-ba-81-tuoi-biet-3-thu-tieng-thich-danh-dan-organ-va-tap-gym/
Phần thể hiện của bà Trần Huỳnh Xuân tại chương trình:




MÙA THU SÁM HỐI


Cây kia cành lá sum suê
Như người giàu có say mê trần đời
Tích nhiều của cải cơ ngơi
Xuân qua hạ tới thu rời sang đông

Đời mình cứ tưởng mầu hồng
Thu sang lá rụng số không trở về
Trơ thân trụi lá gớm ghê
Thân cây sạch lá ê chề thảm thương

Lá xanh không biết khiêm nhường
Giờ đây kiệt xác thê lương thảm sầu
Khi xưa không biết nguyện cầu
Đêm lo ngày tính làm giầu cho nhanh

Làm giầu lắm lá cho xanh
Trái thì chẳng có lắm cành ích chi
Sinh lời hoa trái được gì
Nếu không sinh lợi chặt đi cho rồi

Ăn năn sám hối phục khôi
Tu tâm sửa tính phục hồi phát huy
Yêu người khốn khó hàn vi
Sinh nhiều hoa trái thực thi lời Ngài

Lê Danh Dương 
13/10/2018

Lá xanh = Đô la xanh

* Matta Nguyễn Thúy Vi (Gx.Phú Hữu)
                                         
Đông đến, cũng là lúc trời trở lạnh hơn và chúng tôi cũng bận rộn hơn. Bận rộn việc tập hát, tập múa, tập kịch, làm sạch đẹp nhà thờ để chào đón ngày Hài Nhi Giêsu ra đời. Tôi, một cô bé tên Hạ, rất mến Chúa nên cũng rất hăng say tập múa.
Hôm nay, khi tôi đang đứng trên gác chuẩn bị tập múa, ngoài trời mưa tí tí, gió nhè nhẹ, chúng hòa quyện vào nhau làm mưa nghiêng về một phía. Mưa nghiêng vào lòng tôi, và… nó làm tôi nhớ về Giáng sinh năm ngoái, một Giáng sinh thật ý nghĩa đối với tôi.
Hôm ấy, thời tiết giống như hôm nay, tôi phải đội ô để đi kêu các bạn tập múa.
- Yeah! Đã xong. Còn mỗi cái Linh nữa là đủ rồi.
Tôi vội vã chạy nhanh đến nhà Linh, trời mưa mỗi lúc một to.
- Linh ơi!
- Hạ à, có chuyện gì không?
- Có chuyện tớ mới qua đây chứ! Noel này cậu có tham gia canh thức không? Còn mình cậu nữa là đủ số rồi.
- À… ừ…- Linh ấp úng.
- Sao thế?
- Chắc năm nay tớ không tham gia được.
- Cậu bận à? Bận thì báo với sơ ngày khác cũng được. Bạn mà bỏ tập múa uổng lắm.
- Tớ muốn, nhưng… nhưng ba tớ không cho. Ba bảo tớ phải ôn thi, không tập tành, không múa máy gì cả. Tớ buồn lắm.
Suy nghĩ hồi lâu, tôi reo lên.


- Cậu để tớ giúp cho!
- Giúp thế nào?- Linh tò mò.
- Để đấy tớ lo…- Tôi cười.
Tôi không kiếm người khác vì tôi biết Linh rất yêu Chúa. Tôi chạy một mạch về nhà.
- Ba ơi! Ba giúp con chuyện này được không?
- Chuyện gì thế con gái của ba?
- Ba là giáo lý viên nhỉ? Ba cũng rành trong việc kêu gọi người khác quay về với Chúa. Hôm nay, ba giúp con nói với ba bạn Linh được không ạ?
- Chuyện gì mà ba phải nói với ba bạn ấy chứ, con yêu của ba?
- Linh rất thích tập canh thức nhưng ba bạn ấy không cho, bảo là phải học bài… rồi nhiều thứ nữa lắm! Ba giúp con nhé?
- Để ba xem đã, không được thì thôi nha!- Ba cười.
- Kìa ba…- Tôi nhõng nhẽo.
- Rồi rồi… Ba đùa thôi, để ba giải quyết!- Ba xoa đầu, hôn nhẹ lên trán tôi.
Tối hôm ấy, Linh vội vã chạy sang nhà tôi, tôi giật mình tấm tắc hỏi. Linh bật cười lớn, vội khoe.
- Này! Cậu làm thế nào mà hay thế?
- A… hihi! Tớ cũng chẳng biết ba tớ đã làm gì nữa… Thế là hiểu nhé, vui rồi.
- Tớ mừng quá chạy qua đây luôn, quên mất trời đang tối, tớ về ăn cơm đây, bye nhé!
- Bye cậu!
Tôi cũng mừng, vội hỏi ba, ba lấy ra một tờ lộc xuân Lời Chúa.
- Đấy, đơn giản vậy thôi, con xem đi.
- “Bản thân chúng ta, cùng với ngôn từ, với toàn bộ trí tuệ và tài năng, tất cả đều nằm trong tay Thiên Chúa” (Kn 7,15)… Ba hay thật đấy, con còn không nghĩ tới nữa cơ!
- Ông ấy đọc tờ lộc của con, khó hiểu nên hỏi ba. Ba giải thích là con gái của ba vừa đảm đang việc Chúa, siêng năng việc nhà, nên Chúa ban cho con học giỏi, rồi kể thành tích học tập của con. À! Ba còn nói về chuyện con bé Linh, nó rất yêu Chúa nữa, và điều con bé muốn, thế là ông ấy trầm tư suy nghĩ…
- Hoan hô! Ba thật tuyệt vời. Thế là Giáng sinh này, con và ba làm được việc tốt ba nhỉ? Hài Nhi Giêsu sẽ vui lắm đây. Thích thật!
- Ừ con, giúp ba của bé Linh quay lại với Chúa, bé Linh lại được tập canh thức.
Tôi và ba cùng cười.
* * *
- Này! Vào tập múa nhanh nào, làm gì mà đứng cười một mình thế cô?  
À! Cái Linh đấy, nó gọi tôi.
- Có gì đâu… hihi, vào thôi!
Tôi nhìn nó mà tự nhiên thấy hạnh phúc. Cũng từ đó mà tôi với nó thân nhau  lạ thường.

Đại Lễ Phong Hiển Thánh 117 Vị Tử Đạo Việt Nam

Do ĐGH Gioan Phaolô II chủ sự lễ phong thánh tại Rôma 19/6/1988 cho 117 vị Tử Đạo tại Việt Nam.


----------o---------- 

+ Giáo Hội Việt Nam mừng NĂM THÁNH : ( 19/6/18 – 24/11/18 ) 
Kỷ niệm 30 năm Phong Hiển Thánh (19/6/1988- 19/6/2018)



Bài tường thuật của Đức Ông Trần Ngọc Thụ, Bí thư ĐTC Gioan Phaolô II,
- Cáo Thỉnh Viên Án Phong Thánh.


* Trước ngày Đại Lễ


1-Trong vụ Án Phong Thánh VN, tất cả 117 vị đã là Chân Phước, đã được tôn vinh trong 4 đợt trước (những năm 1900,1906, 1909 và 1951) đã có

4 phép lạ ( bệnh nhân được chữa lành và được bác sĩ đoàn xác nhận - Trần Ngọc Thụ : Giáo Hội VN I- vụ Án Phong Thánh, St. Michael Printing, USA, 1987, tr.48-54), chỉ còn làm lại hồ sơ theo thủ tục hành chánh để nộp lên Bộ Phong Thánh. Bởi vì tất cả 117 Vị đều là Thánh tử Đạo, nên chỉ cần một phép lạ duy nhất, hay là còn có thể xin Tòa Thánh tha cho nữa. Vì là một đặc ân quá lớn lao, chúng tôi chỉ xin Đức Hồng Y Palazzini, trong tư thế Bộ Trưởng Bộ Phong Thánh, đại diện cho hàng Giám Mục VN, đứng lên xin Tòa Thánh tha điều kiện phép lạ. Lý do mạnh mẽ ủng hộ điều kiện này chính là sự thăng tiến kỳ diệu của Giáo Hội VN qua hơn 400 năm lịch sử hào hùng đã trình bày trước đây. Không thể giải thích sự thăng tiến đó ngoài thiên định của Thiên Chúa : hơn 400 năm khai nguyên và phát triển hùng mạnh là một phép lạ triền miên.

2 -Tin ngày Phong Thánh vừa được ĐGH Phaolô II tuyên bố, khác nào tiếng sấm động, vang ra khắp năm châu bốn bể. 
Tinh thần giáo dân nổi dậy như sóng cồn, chỗ nào cũng nghe bàn tán chuyện đi Rô-ma dự lễ Phong Thánh. Ủy Ban Phong Thánh được thành lập cấp tốc. Ba lần các linh mục VN khắp thế giới về họp tại La-Mã để hoặch định chương trình và phân phối công tác tỉ mỉ cho từng cộng đoàn, từng lục địa. Các khách sạn lớn chung quanh Vương Cung Thánh Đường Phêrô đã được giữ hết chỗ một năm trước. Người ta dự đoán số người về tham dự tối đa là 5000. Ba tháng trước đại lễ con số đã 6 ngàn rồi tăng lên 7 ngàn,

Sau cùng là 8250 giáo dân VN từ 27 nước trên 4 lục địa Á Châu, Âu Châu, Mỹ Châu và Úc Châu…Từng đoàn người đổ về các ga xe lửa và sân bay Ý Đại Lợi. Thêm vào đó, 560 linh mục, nam nữ tu sĩ tới Rô-ma với tư cách riêng, hay là tháp tùng các đoàn thể của mình theo tư cách tuyên úy. Các tiệm bán ảnh tượng chung quanh Tòa Thánh Vatican, các tiệm ăn thấy toàn áo dài và khăn xếp VN. Trên các nẻo đường nghe rõ tiếng con cháu Rồng Tiên thao thao bất tuyệt và gọi nhau ơi ới. Sao mà vui nhộn đến thế ! Tất cả rừng người này, chiều hôm thứ bảy 18/6/1988 sẽ kéo nhau về Quảng Trường Thánh Phêrô, để dự cuộc rước kiệu di hài các Thánh Tử Đạo VN và dâng hoa kính Đức Mẹ.

Cuộc rước kiệu là một cảnh tượng hết sức lạ mắt và vô cùng ngoạn mục, nhất là trước con mắt người ngoại quốc. Họ trèo lên tường, lên đế cột đèn điện, lên ghế cá nhân để bàn tán, chiêm ngưỡng. Đây là công lao vượt mức trong việc chuẩn bị, may sắm, tập dượt, từ ca nhạc đến đoản kịch, nghi lễ…đủ mọi bộ môn theo truyền thống văn hóa dân tộc. Phải ca ngợi và thán phục tinh thần phục vụ tối đa của giáo dân VN tại Mỹ Châu trong dịp này. Từng đoàn quí ông mặc áo thụng màu xanh, từng đoàn quí bà mặc áo dài nhung, gấm màu đỏ, rồi đồng phục màu vàng của các ca đoàn, của 50 em thiếu nhi trong ban vũ đến từ Portland. Đấy là chưa kể đến các thiếu nữ trong đội lính thú ngày xưa với y phục nón chóp xà cạp đỏ và ban Văn Tế, cùng đội chiêng trống, lọng chầu…với y phục nghi lễ Á Đông. Người bản xứ rất thích thú trước hoạt cảnh một vị hưởng chức trong trong y phục đại lễ cổ truyền với khăn xếp màu đỏ, cứ tiến một bước lại lùi một bước, và trịnh trọng điểm một dùi trống lên mặt chiếc đại cổ (trống lớn) do hai chàng thanh niên vạm vỡ khiêng trên vai. Lúc 21 giờ đêm, từ Điện Vatican, chứng kiến cuộc rước kiệu này, ĐTC Gioan Phao-lô II đã cho lệnh mở cửa sổ văn phòng để đích thân ban phép lành cho đoàn con VN đang diễn hành trên Quảng Trường Thánh Phêrô. 

3 -Ngày hôm sau, Chúa Nhật 19/6/88, biển người nói trên lại tập chung về Quảng Trường Thánh Phêrô, chung hàng ngũ với 10 ngàn người Tây Ban Nha, gần 4 ngàn người Pháp và chừng 10 ngàn du khách thập phương, cùng với giáo dân người Ý, nghe tin đồn thổi cũng tuốn đến dự lễ Phong Thánh Tử Đạo VN. Vì ở vào giữa tháng 6, nghĩa là đã giữa mùa hè, mặc trời mọc sớm, khí hậu nóng nực, do đó để cho dễ thở và bớt mức độ oi ả, ĐTC đã đồng ý bắt đầu nghi lễ sớm hơn một giờ. Vào dự lễ hôm đó, mọi giáo dân VN phải đeo khăn quàng cổ in hình 117 Thánh Tử Đạo VN, để cho các đoàn thể dễ nhận ra nhau. 

4 -Trước khi tường thuật giai đoạn chung kết, chúng tôi xin kể một sự việc rất quan trọng đối với sự thành công của đại lễ, đó là vấn đề tài chính của ban tổ chức. Mỗi lần nhớ đến việc này chúng tôi không khỏi ngậm ngùi xúc động trước sự quan phòng của Thiên Chúa. Lý do hết sức hiển nhiên là ban tổ chức lúc ban đầu hoàn toàn tay không, chưa có ai dâng cúng một đồng nào. Giải quyết vấn đề này là một việc rất khó khăn, nhưng đồng thời là việc rất thiết thực và rất cấp bách. Đi vay mượn các Hội Dòng ngoại quốc đã từng hoạt động bên VN là điều có thể, nhưng chạm lòng tự ái dân tộc, cho nên chúng tôi đề nghị vay chính Ngân hàng Tòa Thánh. Chúng tôi liều mạng đi thương thuyết và ký giấy giao kèo với nhân viên Ngân hàng vay 50 triệu tiền Ý ( tương đương 30 ngàn Mỹ Kim ). Ký giấy giao kèo mà tay run cầm cập vì đã 3 đêm lo lắng không ngủ.

Quả thật từ ngày cha sinh mẹ đẻ, chúng tôi chưa bao giờ táo bạo đến thế. Ký xong chúng tôi lủi thủi đi ra chưa tới cửa Ngân hàng thì Đức Ông Bonis, người Ý (bây giờ là Giám mục) từ đâu đuổi theo.

Đức Ông hỏi : “Cha làm gì mà tiêu sài với số tiền lớn như vậy ? ”. Hơi chạm tự ái, chúng tôi ngập ngừng chưa kịp trả lời thì ngài lại nhấn mạnh : “Cha làm gì ? cha đừng dại lấy tiền ra vội, vì lấy ngày nào cha phải trả lãi ngày đó. Mượn 50 triệu ngày 1 đầu tháng thì 30 cuối tháng cha phải trả 53 triệu.”

Chúng tôi buộc lòng dẹp tự ái thưa : “Đây không phải là tiêu xài cá nhân con, nhưng là để lo tổ chức Đại lễ Phong Thánh 117 vị 

Chân Phước Tử Đạo mà Hội Đồng GMVN đã trao phó cho con và nay vụ án đã xong đã được Đức Giáo Hoàng châu phê và tháng 6 sắp tới sẽ cử hành long trọng.”

Đức Ông Bonis nói : “Trước tôi tưởng cha lo việc cá nhân, chứ bây giờ biết chuyện Phong Thánh. Vậy cha cứ việc làm, tốn phí bao nhiêu tôi sẽ chịu cho.” Thật sự, ngài đã cho một số quan. 

Quả thực, là một giấc mơ ! Nhưng nếu mơ thì phải mơ ban đêm chứ đâu giữa thanh thiên bạch nhật. Trước đây, ba bốn đêm chúng tôi không ngủ vì lo sợ, bây giờ thì chúng tôi cũng ba bốn đêm không ngủ vì ngỡ ngàng, như còn đang trong ảo mộng. Làm sao có chuyện kỳ diệu đến thế ! 

*Ngày Vinh Quang.


Từ sáng sớm, Quảng Trường Thánh Phêrô đã đen nghịt dân chúng. Từ 3 quốc gia, hàng ngàn vạn giáo dân tập trung về đây.

Trước kia họ không quen biết nhau, nhưng giờ phút này họ chào nhau, vui cười với nhau, vì trong thâm tâm họ cùng một cảm nghĩ tự hào vì tấm gương anh dũng, trung kiên, thành tín của tổ tiên mình.

Đúng chương trình, 8 giờ 30 Đức Thánh Cha và đoàn tháp tùng (28 Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục), mặc đại phục đỏ đồng tế, từ trong Vương Cung Thánh Đường Thánh Phêrô tiến ra Quảng Trường vĩ đại, giữa muôn vàn tiếng vỗ tay. ĐGH Phao-lô II luôn giơ tay chào đón và chúc lành. Ca đoàn Sixtina của Tòa Thánh hát kinh nhập lễ bằng La ngữ. Trước đó, ca đoàn tổng hợp từ Mỹ qua, đã hát bài Ngày Vinh Thắng của Linh mục Ngô Duy Linh, rồi trong Thánh Lễ bài ca Khúc Trầm Hương của Dao Kim, cuối lễ là bài Tiếng Nhạc Oai Hùng của Hải Linh. Những bài nhạc này hôm ấy vang dội gữa thủ đô Giáo Hội có một ý nghĩa đặc biệt, vì được hát bằng tiếng Việt, tiếng nước ta.

Một sự kiện lạ là Thánh lễ đang cử hành đẹp đẽ trang nghiêm, thì tự nhiên bầu trời thay đổi. Một vài cơn mây đen nghịt từ đâu kéo đến và mưa bắt đầu nhỏ giọt. Từ trong thánh đường người ta đã khiêng lọng ra che phủ bàn thờ. Cả ngàn con tim, nhất là giáo dân VN, như thể đã bị ngừng đập, tất cả trăm người như một, thầm thì kêu van : Lạy Chúa ! Cả Giáo Hội chúng con, từ ba bốn trăm năm, đã mong chờ hôm nay, được trông thấy ngày này huy hoàng trọng thể, xin Chúa cất mọi trở ngại để danh Chúa được thể hiện nơi các Thánh Tử Đạo chúng con. Quả thật, sau mấy phút đám mây đen đã bị luồng gió cuốn đi xa và trời thanh quang xuất hiện như trước.

Lễ nghi Phong Thánh bắt đầu sau kinh Thương Xót, Đức Hồng Y Palazzimi, Bộ Trưởng Bộ Phong Thánh, cùng với luật sư của Bộ và 3 Cáo thỉnh Viên Việt, Pháp, Tây Ban Nha, ra trước bàn thờ xin ĐTC cử hành Đại Lễ. Toàn thể cử tọa, theo lệnh viên chức nghi lễ, đều quì hát Kinh Cầu Các Thánh, xin sự trợ giúp của Thần Thánh trên trời, trước khi nghe tuyên xưng 117 Vị Thánh mới.

Sau đó, ĐHY Palazzimi trở lại trước bàn thờ và tuyên đọc :

‘Kính thưa Đức Thánh Cha, Giáo Hội là Mẹ, xin ĐTC ghi tên các vị sau đây : Chân Phước Anrê Dũng Lạc, Linh mục Toma Thiện,và Emmanuele Phụng, giáo dân. Girolamo Hermosilla, Valentino Berrio Ochoa, 2 Giám Mục Đa Minh và 6 Giám mục khác- Teophan Venard, Linh mục Hội Thừa Sai Ba Lê và 105 bạn Tử Đạo VN, vào sổ bộ Các Thánh và được các giáo hữu kêu cầu bằng danh xưng Hiển Thánh.

Kính thưa Đức Thánh Cha, trên mảnh đát gieo nhiều hạt giống đẫm máu, mảnh đất đó càng phát sinh nhiều vị Tử Đạo và rồi hạt giống đó sẽ kết thành mùa lúa vàng cho Giáo Hội. Các Thánh Tử Đạo chết đi càng là chứng nhân cho Chúa Ki-tô hơn là lúc còn bình sinh. Ngày nay, các ngài vẫn còn đang nói, vẫn còn giảng thuyết. Miệng lưỡi tuy im bặt, nhưng bao niêu sự việc còn vang dội sâu xa.

Lời suy niệm trên đây của Thánh Augustino áp dụng trong niên lịch ngày 19 tháng 6. Lễ kính hai Thánh Gervatsio và Protasio, tử đạo thành Milan, hôm nay có thể trưng lại vì rất thích hợp với niên hiệu và lễ nghi, để tôn vinh 117 Vị Thánh khác cũng là huynh đệ trong đức tin và trong tử nạn: trước đây, suốt thời gian từ 1745 đến 1862, đã hy sinh tính mạng tại VN, trong vùng Đông Nam Á Châu, hồi đó gọi là Tonkin, An Nam và Cocincina. Máu cúa các ngài cũng như máu của hàng ngàn anh chị em khác, hôm nay đã kết thành mùa lúa vàng cho Giáo Hội VN. 

Là cha mẹ trong đức tin, 5 Vị Giám Mục Pháp và Tây Ban Nha, đã sinh các vị khác trong Chúa Ki-tô, y như lời Thánh Kinh  (1Cr.4- 15). Các vị đã là nhân chứng xứng đáng theo lời mình đã rao giảng, bằng khổ hình, bằng thập giá, và theo gương Chúa Giê-su Vị Mục Tử Tối cao nhân hậu, các ngài thật là gương mẫu cho đoàn chiên (1Ph.5) 

50 Linh mục, 13 Âu Châu, 37 Việt Nam, cùng đứng trong hàng ngũ chăn chiên thuyết giảng lời Chúa và cùng chịu xiềng xích lao tù, đã lấy xương máu để hoàn tất nghĩa vụ thi hành các bí tích, đúng là những cộng tác viên của hàng Giám Mục (LG.số 28), tức là những người phân phát máu Con Chiên vô tội, cũng là máu đã thánh hóa bản thân các ngài. Sau hết, 59 giáo dân thuộc mọi tầng lớp xã hội, hầu hết là gia trưởng, một số là thày giảng giáo lý, hồi xưa trong các gia đình, trong các cộng đoàn đã sống tốt lành, đã là những chứng nhân cho Bí Tích Thánh Tẩy bằng nước, bằng Thánh Linh và bằng Lửa (Mt.3: 11)

Kính thưa Đức Thánh Cha,

Con số 117 Vị này sắp được Đức Thánh Cha nghị quyết đưa lên hàng danh dự và được tôn phong phẩm hàm các Thánh Tử Đạo, được toàn thể Giáo Hội tôn kính. Với các ngài, cũng như con cháu các ngài, giờ đây văng vẳng dội lại lời Thánh Phê-rô khuyên nhủ: Nếu ai trong anh em phải chịu khổ hình, vì mình là Ki-tô hữu, thì đừng có xấu hổ thẹn thùng, nhưng phải hiên ngang tôn vinh Thiên Chúa vì danh hiệu đó (1Ph.4: 6)

Trong Quảng trường linh thiêng này, bên cạnh mồ vị Tiên Chủ các Thánh Tông Đồ, đang hiện diện hơn 8 ngàn giáo dân Việt Nam, từ khắp năm châu bốn bể qui tụ về đây, họ như đang cầm ngành thiên tuế ngước mắt nhìn lên các vị đồng hương tiên tổ, sắp đón nhận vòng hoa chiến thắng như các vĩ nhân anh tài. Chung quanh họ còn có gần 10 ngàn giáo dân Tây Ban Nha và 3 ngàn giáo dân Pháp. Tất cả là anh em kết nghĩa trong Chúa Ki-tô, cũng như giáo dân hai quốc gia này là anh em của những vị thừa sai khi xưa, đã mang danh Chúa Ki-tô có thần lực cứu vớt nhân loại (Cv.: 12), rao giảng trên khắp lãnh thổ xa xăm Việt Nam. Trong số đó, có những người con của Thánh Đa-minh, 34 vị vừa Tây Ban Nha vừa VN hồi xưa đã nhập dòng Anh Em Thuyết Giáo theo đúng danh xưng của họ. Ngoài ra, còn 10 thành viên của Hội Thừa Sai Ba Lê.

Trên những địa hạt hồi xưa được trao phó cho hai hội dòng Thừa Sai nói trên, từ năm 1960 đã thành lập 25 giáo phận. Số người Công Giáo hiện nay gần 7 triệu giáo dân. Tất cả giáo đoàn này, trong cũng như ngoài nước, đang tiến bước hùng mạnh, sát cánh bên nhau, họ phấn khởi đi về Tổ Quốc Trường Sinh vĩnh cửu. Vì họ xác tín vào lời giáo huấn của Thánh Phaolô. Từ nay được cả khối chứng nhân đông đảo như thể nâng đỡ họ , kiên trì chấp nhận cuộc thi đua đã bắt đầu. Từ nay nhìn lên Chúa Giê-su, Vị tiên phong ban phát đức tin hoàn hảo, thay vì hưởng niềm hoan lạc vẫn có, Ngài đã giang tay ôm lấy Thánh Giá và hiện giờ đang ngự bên hữu tòa Thiên Chúa (Heb.12: 1-2). Đức Hồng Y vừa đọc xong lời thỉnh nguyện và Kinh Cầu Các Thánh vừa chấm dứt, toàn thể dân chúng đứng lên hợp ý với Đức Thánh Cha, Ngài kết thúc Kinh Cầu Các Thánh bằng lời nguyện : 

‘Lạy Chúa nhân từ, xin nghe lời dân Chúa cầu xin và xin chiếu dọi ánh sáng của Thần Linh Chúa vào tâm trí chúng con, để việc phụng thờ của chúng con làm đẹp lòng Chúa và cho Giáo Hội được thêm phát triển. Nhờ Đức Chúa Ki-tô Chúa chúng con-Amen’

Toàn thể cộng đồng dân Chúa vẫn đứng nghiêm chỉnh. Đức Thánh Cha lại ngồi trên ngai và long trọng đọc công thức Phong Thánh :

“Để tôn vinh Thiên Chúa Ba Ngôi Chí Thánh, để phát huy đức tin Công Giáo, và củng cố đời sống Ki-tô hữu, vói quyền lực của Chúa Ki-tô Chúa chúng ta, của hai Thánh Tông Đồ Phê-rô, Phao-lô và của riêng tôi. Sau khi đã suy nghĩ chín chắn, cũng như đã nhiều lần cầu xin sự trợ giúp của Thiên Chúa, đã tham khảo nhiều ý kiến của Chư Huynh Giám Mục, tôi quyết định tuyên bố :
Các Chân Phước Anrê Dũng Lạc, Linh mục- Tôma Thiện và Emanuele Phụng, giáo dân- Girolamo Hermosilla và Valentino Berrio Ochoa, hai Giám Mục Dòng Đa-Minh va 6 Giám Mục khác. Teophan Venard, Linh mục Hội Thừa Sai Ba Lê và 105 bạn Tử Đạo Việt Nam, là các vị Thánh và Ngài đã được liệt kê vào sổ Các Thánh. Tôi cũng quyết định rằng Giáo hữu trong toàn thể Giáo Hội sốt sáng mừng kính các Ngài như các Thánh Tử Đạo- Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần- Amen.”

Từ trên cao mặt tiền Vương Cung Thánh Đường Thánh Phêrô, một bức tranh thật lớn, dài 4 thước, rộng 3 thước 20, đã họa đủ số 117 Thánh Tử Đạo, từ từ được mở ra giữa muôn vàn tiếng vỗ tay hô vang. Đại phong cầm của Ca đoàn Sixtina cử bài nhạc rộn rã ca ngợi và tri ân Thiên Chúa. Từ Quảng Trường Thánh Phêrô lễ nghi được tiếp vận trực tiếp về Việt Nam. Đài vô tuyến Truyền thanh Truyền hình của chính phủ Ý, liên tiếp trong 3 tiếng đồng hồ, đã tường thuật tất cả nghi lễ đi khắp nước Ý. Nhiều người trong đoàn giáo dân VN, nhất là các cụ già, đã xúc động và rút khăn lau nước mắt, vì cảm thấy vinh hạnh sung sướng, đưoạc là con cháu các vị anh hùng. Trong suốt thời gian lưu lại Rô-ma, Chúa Quan phòng cũng đã ban ơn lành, gìn giữ hơn 8 ngàn giáo dân VN, không một ai đau ốm hay bị tai nạn nào, ai cũng tươi cười, vui vẻ và phấn khởi…

(*) Ghi chú: Trích từ tác phẩm ‘Đức Ông Vinh sơn TRẦN NGỌC THỤ Bí thư Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II’ do Đức Ông Phanxicô Phạm Văn Phương và Bạch Diện Thư Sinh Trần Vinh biên soạn.

Nguồn: http://vietcatholic.org/News/Html/247650.htm

NHỚ VỀ MỘT NGƯỜI BẠN ĐÃ KHUẤT 


Tôi nhận được tin M. chết đang lúc tôi cho rằng cậu ta vừa mới bước chân vào ngưỡng cửa cuộc đời. M. là một trong những người bạn mù của tôi, một thanh niên có vóc dáng cao to đầy phong độ. Nghe tin M. chết ai trong chúng tôi cũng “shock”, bởi lẽ M. còn quá trẻ lại chẳng đau ốm gì! Cái chết của M. khiến người ta thương tâm, vì lý do gây nên nỗi thật là không đáng. 

M. mới tập tễnh gia nhập Hội người mù địa phương được ít lâu, thì ở đó người ta tổ chức cho hội viên đi tắm biển Cần Giờ. M. hôm ấy cũng tham gia với mọi người, đến giờ cơm trưa không thấy M. xuất hiện trong bữa ăn, người ta đổ xô đi tìm, thì thấy M. nằm chết bên một ghềnh đá ngoài bờ biển. Theo suy đoán, cậu ta bị vấp té, đầu bị đập vào đá khá mạnh nên sùi bọt mép mà chết. Tôi có nghe chuyện má cậu ta đi thưa kiện gì đó ở Hội người mù, nhưng tôi biết lỗi không do Hội người mù, mà có thể nói do chính bà ấy gây nên nông nỗi này. Nói thế có vẻ không công bằng cho một người mẹ thương con rất mực như bà, song tình thương của người mẹ dành cho con đôi khi lại trở nên sai lầm một cách đáng tiếc.

M. chết do cậu ta không chịu nghe theo lời dặn dò của Ban tổ chức trong cuộc vui hôm ấy. M. đã lén tách rời khỏi đoàn, đi lang thang ngoài bãi biển một mình, M. không ngờ có biết bao nguy hiểm đang chờ đón mình. M. không phải là một hội viên vô kỷ luật, song bởi cậu thiếu vốn sống, khó hòa hợp với các bạn đồng trang lứa. M. thường tách ra khỏi đám đông, cho dù ở đó đang có cuộc vui, cậu thích trầm tư một mình. Và cũng bởi bà mẹ có quan niệm người mù phải sống dựa vào người khác. Chính quan niệm của bà đã cản trở M. tiếp cận với xã hội bên ngoài. Hậu quả của việc bà mẹ quá thương con, muốn bù đắp cho đứa con mù lòa bằng cách chăm lo ấp ủ cho con mọi thứ. Bà sợ nó ra ngoài gặp sóng gió, thương nó ở một nơi xa lạ sẽ không có bà chăm sóc, nên đã không tính tới chuyện cho con đi học ở trường mù. Thấy con quanh quẩn trong nhà buồn bã, bà mua đàn mời thầy về dạy nhạc cho con. Ngoài chiếc radio cassette, cây đàn và người thầy dạy nhạc ra, M. chẳng còn ai là bạn. M. được ăn ngon, mặc đẹp, và cũng sẵn tiền để uống cà phê nữa. Nhưng điều cậu muốn, lại chính là điều người mẹ đã không hiểu, rằng một người mù cũng cần có bạn và có một cuộc sống như bao nhiêu người bình thường khác.

Tôi bồi hồi mân mê những hàng chữ nổi trên một tấm bìa cứng, đó là một trong những kỷ vật của M., một bức thư M. đã viết cho tôi trong thời gian tôi dạy cho cậu ta tập viết. Tôi cảm thấy ấm lòng khi nhớ về những ngày chập chững hòa nhập vào thế giới người mù, những ngày tôi đọc bài thâu vào tape và viết bài bằng chữ nổi gởi cho M. qua bưu điện. Tôi nhớ những ngày dạy học cho M. qua điện thoại... Bức thư có nhiều lỗi chính tả, song tôi vẫn cất giữ lại để làm kỷ niệm: 

“Thân gởi chỵ thủy thương mến đây là nhửng chử tuôi diếc cho chỵ 
Thủy ơi dậy da đình mạnh phỏe hếch chứ hả 
Tại biếc chỵ tuôi rấc dui mừng lòng tui vui 
Nhửng điều tui mún nói rấc nhiều nhưng cuối thư mong chị nhiều xức phỏe” 


Đó là kết quả của những ngày tôi và M. vượt qua không gian và hoàn cảnh để thử nghiệm một lối học từ xa. Ngày đó, khi đọc bức thư của M. tôi vừa tức cười vừa thương cho cậu ta, nhưng cũng lại rất vui mừng vì học chữ nổi đã khó, lại phải học từ xa mà M. viết được như vậy đã là tốt lắm rồi. Liền sau đó tôi phone cho cậu ta để nhắc nhở về những lỗi chính tả đã viết trong lá thư ấy... 

Lúc đầu, má của M. không muốn cho tôi tiếp xúc với cậu ta, nhưng sau khi nhận được những băng cassette do tôi gởi, và thấy con mình vui vẻ, bà dần dần tin tưởng ở tôi. Thỉnh thoảng có việc ở chợ Tân Bình, bà lại chở M. đến nhà tôi chơi, xong việc bà mới đón con về. Những lần gặp gỡ bà, tôi đã thuyết phục bà cho M. đi học ở trường mù, và chúng tôi đã đưa M. vào sống ở chùa PH, một nơi nuôi dạy trẻ khuyết tật. Biết M. sẽ khó khăn khi sống trong một tập thể đông người, tôi đã phải gởi gắm M. cho H. một thanh niên mà tôi rất tin tưởng. Có lần H. đã nói với tôi “Trong đó, tụi nó gọi thằng M. là người cõi trên chị ơi!" Tôi cười bảo “Ừ! Có vậy chị mới gởi gắm nó cho em chứ!"

Lần sinh nhật thứ 40 của tôi, M. và H. đã đi hai chuyến xe bus chưa kể mấy chặng đi bộ để tới thăm tôi. Điều làm cho tôi xúc động hơn nữa, khi M. vừa bước vào nhà đã vội trao cho tôi một tờ giấy. loại giấy dành để viết chữ nổi và nói: 

-Tui tặng cho chị tờ giấy này để chị viết cái gì chị thích. Tờ giấy này còn trắng trinh nguyên chị à! 

H. nói: 
-Hai thằng mù tụi em đi bộ từ chùa PH đến ngã tư Ga đón xe buýt lên chợ Bến Thành, sang xe buýt Sài Gòn-Củ Chi đến ngã tư Bảy Hiền, rồi đi bộ vào nhà chị đó! Nó cầm tờ giấy quơ quơ trước mặt người ta, mà hễ có ai đụng vào là nó cằn nhằn hà! 

Tôi vừa tức cười, vừa cảm động trước tấm chân tình của M. mà muốn rưng rưng nước mắt. Chưa hết, đến chiều khi chuẩn bị ra về, M. đưa tận tay tôi một hộp bánh, nói “Cái này em cho chị phòng khi hạ đường huyết. Còn cái này nữa...” M. lấy hộp bánh ra khỏi tay tôi, đặt xuống cái bàn trước mặt, sau đó lại nhét vào tay tôi một cái gói khác, mà bảo: 
-Cái này mới nặng ký hơn nè! 

Rồi cậu ta trịnh trọng chúc mừng sinh nhật tôi, kèm theo những lời dặn dò tôi phải giữ gìn “xức phỏe”. 

Khi mở gói quà “nặng ký” của M. ra, tôi thật ngạc nhiên và chợt hiểu một điều M. hằng mong muốn, song M. chưa hề có bạn gái để mà thực hiện. Cậu ta tặng cho tôi một bộ đồ trang điểm đầy đủ cả phấn son, màu mắt... M. không biết rằng, món quà quý đối với tôi lại chính là tờ giấy trắng, cụm từ “trắng trinh nguyên” mà cậu ta đã dùng là đầy ngụ ý dành cho tôi. Tôi nhớ có lần tôi đã nói với M. “Chị rất ghét đàn ông rượu bia, em đừng có học đòi bạn xấu mà say xỉn. Em có chuyện gì chị không biết nói sao với má em nữa!” M. đã khẳng định: “Chị yên trí đi! Tui sẽ không để chị thất vọng đâu!” 

Sau hơn bốn năm học tập ở chùa, M. đã học được nghề massage Nhật Bản, và đã có việc làm hẳn hòi. Lần cuối cùng nói chuyện qua điện thoại, M. khoe với tôi: “Em đang làm massage ở Long Thành, chị à! Nghe tin chị bị bệnh, em rất lo lắng cho chị. Mỗi ngày em đều cầu xin Chúa cho chị được mạnh khỏe! Bây giờ em đã có thể tự kiếm sống, không phải xin tiền má nữa!” 

Tôi nhận được cú phone đó của M. chỉ trước khi cậu ta chết khoảng 2, 3 tháng. M. thường xuyên gọi điện thoại cho tôi để hỏi thăm sức khỏe, vì cậu ta nghe tôi nói đùa rằng “một ngày nào đó chị ra đi, bạn bè sẽ không ai biết...”. Khi nghe tôi nói thế, M. đã thở dài đánh sượt rồi nói: “Em cầu xin Trời Phật cho chị mạnh khỏe, một ngày nào đó gọi điện thoại mà không gặp chị, chắc là em hụt hẫng...” 

Tôi nhớ đến M. mà ngỡ như tiếng đàn guitar và giọng ca của M. còn văng vẳng đâu đây: 
“...tôi ca không hay, tôi đàn nghe cũng dở, nhưng nàng...”, 

Giọng ca của M. nghe mùi mẫn quyện lẫn vào tiếng đàn sôi nổi trong một buổi chiều khi chúng tôi vừa mới quen biết nhau. Chiều hôm đó, M. hỏi “Chị có muốn tui đờn cho chị nghe không? Tui sẽ mở loa điện thoại thiệt lớn cho chị nghe tui đờn. Nhưng mờ tui nói trước là tui đờn không hay mà ca cũng dở nữa đó!” Chiều ấy, được tôi lắng nghe và nhiệt tình tán thưởng, M. hưng phấn đến nỗi làm đứt mất một dây đàn, điều đó đã để lại trong tôi một kỷ niệm sâu sắc. 

Tôi nhớ đến M. thật nhiều. Những gì M. đã dành cho tôi, tôi rất trân quý. Và có lẽ M. quý tôi, vì tôi đã không coi cậu là người cõi trên như bao nhiêu người khác. Tôi nhớ đến những cuộc nói chuyện giữa hai chúng tôi qua điện thoại, khi M. chưa đi học xa nhà. M. đã tin tưởng và hỏi tôi những chuyện mà giữa một thằng con trai và một người chị gái thường là chẳng bao giờ người ta dám nói. Rất may, tôi đã từng được học về tâm lý lứa tuổi vị thành niên, và đã từng dạy học cho các em học sinh cấp hai, nên tôi hiểu những điều M. đang băn khoăn thắc mắc. 
Không nhìn thấy gì lại ít tiếp xúc với người đời, M. cũng không được đến trường học tập như các bạn đồng trang lứa, thế nên cậu ta thiếu rất nhiều kinh nghiệm sống. Tôi hiểu, thằng con trai hai mươi mốt tuổi tràn đầy sinh lực trong M. đang muốn nổi loạn. M. vì bị bó hẹp trong bốn bức tường suốt quãng đời thơ ấu và lớn lên trong sự ấp ủ của người mẹ, đã giống như người cõi trên trong mắt bạn bè là vì vậy. Đối với người mẹ, M. chính là động lực sống, đồng thời lại cũng là nỗi lo canh cánh trong lòng. Bà luôn lo sợ một ngày nào đó bà phải ra đi, M. sẽ ở lại không người chăm sóc. Nỗi lo vẫn còn đó, mặc dù bà biết con bà đã có thể tự kiếm sống cho bản thân. Trong khi M. đang hăm hở bước vào quãng đời mới, một quãng đời tự lập, cậu cảm thấy mình bây giờ mới thực thụ là một con người; thì bà mẹ phải chuẩn bị cho ngày bà sẽ ra đi, để lại đứa con trai yêu dấu tội nghiệp. Tôi thì ốm đau bệnh hoạn, lúc nào cũng cho rằng mình sẽ là người ra đi trước...

Trong câu chuyện giữa chúng tôi, chúng tôi đều ngầm hiểu rằng, M. sẽ là người tiễn tôi ra đi; còn lại là một M. trẻ khỏe, chứ đâu phải là tôi hay bà mẹ của M. vốn đang bệnh ung thư! Nhưng, tất cả đã không nằm trong dự đoán của chúng tôi! 

Tin M. chết vì tai nạn khiến cả gia đình tôi ai nấy đều thương cảm. Ai có ngờ đâu, một thanh niên khỏe mạnh như thế bỗng dưng lại lăn ra chết một cách đột ngột như thế! Nghe tôi kể về chuyện bà mẹ có ý định thu xếp cưới vợ cho M. như thế nào, ai cũng nói “Bây giờ mẹ nó không còn phải lo lắng cho nó nữa! Thật là người tính không bằng trời tính”. Tôi thì cho rằng, tất cả đều không ngoài ý Chúa! 

Hôm nay vào tháng cầu cho các đẳng linh hồn, tôi nghĩ đến M. và người mẹ một đời đau khổ của cậu ta. Dù rằng M. là một tín đồ Phật giáo, tôi vẫn thầm mong cho linh hồn cậu được thanh thản nơi thế giới bên kia. Chẳng biết nơi ấy, M. có cơ hội chơi đàn và hát những bài hát cậu đã hát cho tôi nghe ngày xưa? Tờ giấy “trắng trinh nguyên” của M. vẫn còn nằm yên trong tập hồ sơ lưu trữ của tôi. Nó trinh nguyên như những gì M. đã dành cho tôi vậy...


CON DÂNG LÊN MẸ


Xin dâng Mẹ nỗi lòng con day dứt...
Tháng năm dài trằn trọc tưởng đã quên
Con không sao trút bỏ được ưu phiền...
Tảng đá ấy nặng nề theo năm tháng...

Muốn trút bỏ để tâm hồn tươi sáng...
Mẹ đoái thương xin dẫn dắt con đi...
Dẫu đường đời gai góc chẳng phẳng lì...
Lòng ích kỷ khiến tim con nứt rạn...

Về bên Mẹ tâm hồn con thanh thản...
Nguyện một lòng từ bỏ mọi sân si...
Sống khiêm nhường hối cải chẳng so bì...
Dâng lên Mẹ niềm tin yêu trông cậy...

BÌNH KIM
16/10/2018

NẾU BIẾT TRĂM NĂM LÀ HỮU HẠN 

Truyện kể rằng: ở một vương quốc xa xôi nọ, người ta có tập tục rất kì lạ. Hàng năm, họ bầu ra vị vua cho họ với toàn quyền sinh sát, đồng thời đưa vị vua cũ ra một hòn đảo hoang xa xôi giữa biển khơi. Những người được bầu làm vua vừa sung sướng vừa đau khổ. Sung sướng bởi vì họ có thể vui hưởng tất cả mọi thú vui trần gian: tiền tài, danh vọng, lạc thú. Nhưng họ cũng đau khổ vì những gì họ được vui hưởng rất chóng tàn. Chẳng bao lâu nữa, họ sẽ chết dần chết mòn trong đói rách và cô đơn ở ngoài đảo xa xôi kia. Càng lo buồn, những vị vua một năm ấy lại càng lao mình vào những cuộc ăn uống, vui chơi cho thỏa mãn mọi ham muốn của một con người sắp chết. 


Tuy nhiên, năm ấy vị vua được bầu lên là một người rất khôn ngoan. Anh ta không hề nghĩ tới chuyện vui hưởng lạc thú vinh hoa của một vị vua, thay vào đó, anh làm một cuộc đầu tư lớn. Anh dành hết tiền bạc của cải mà anh có được để mua tàu bè lớn, thuê mướn nhiều nhân công, mua sắm vật tư, cây trồng, hoa trái, súc vật đủ loại rồi gởi ra đảo hoang kia, nhằm xây dựng một trang trại rất lớn với nhiều nhà cửa, giếng nước, vườn cây, các đồng cỏ chăn nuôi súc vật trâu bò heo gà không thiếu thứ gì. Và rồi, sau một năm làm vua tương đối vất vả, anh ta vui vẻ lên thuyền đi ra hòn đảo mà anh dày công đầu tư với tất cả những gì anh có, để tận hưởng cuộc sống còn lại của mình trong sung túc và an lạc. 

Nếu chúng ta được chọn làm vua trong vương quốc đó, chắc hẳn chúng ta cũng sẽ hành động như vị vua khôn ngoan kia, biết đầu tư cho cuộc sống lâu dài hơn là chỉ biết tận hưởng những vui thú nhanh qua chóng tàn. 

Thật ra, tất cả chúng ta đang làm vua ngắn hạn như vậy để sau đó bước vào một cuộc sống bất tận, sau khi kết thúc những năm tháng trên dương thế. Vậy thì chúng ta đang sống như thế nào? Chúng ta đang tận dụng cuộc sống hữu hạn này đầu tư vào cuộc sống dài hạn hơn vô cùng, hay chúng ta đang cố gắng tận dụng những năm tháng vắn vỏi này chỉ để vui hưởng bao nhiêu có thể trước khi nhắm mắt lìa đời cho khỏi hối tiếc? Hãy dành thời gian ngồi lại với chính mình, chất vấn bản thân mình về điều này một cách thẳng thắn và nghiêm túc! 

Ai cũng cảm thấy được rằng cuộc sống thấm thoát qua đi rất nhanh. Nhiều sự việc tưởng là mới đó thôi, vậy mà nhìn lại đã 20-30 năm rồi. Sau một thời gian mải mê học hành, bươn chải lập thân, lập thất, thành gia tương đối ổn định thì chúng ta đã trên dưới 40. Lo lắng cho con cái học hành thành người thì chúng ta đã già. Nhìn các chú, các cô, các cậu trong gia đình nội ngoại mới ngày nào đó còn trẻ trung, chuẩn bị lập gia đình, giờ đây các chú, các cô, các cậu ấy đã 50-60, đã là ông là bà. Mà thật ra, cái khoảng thời gian 100 năm đời người của chúng ta có là gì đâu so với nhân loại, so với vũ trụ hàng triệu hàng tỉ năm này. Đời người chỉ là một hạt cái giữa biển đời vô tận mà thôi. 


Nếu biết trăm năm là hữu hạn, mỗi người chúng ta cần phải ý thức, phải ghi nhớ luôn luôn điều đó, để biết sống khôn ngoan hơn và an nhiên hơn giữa dòng đời vạn biến này. Hãy làm cho mọi nỗ lực cố gắng của chúng ta, những hy sinh vất vả nhọc nhằn của chúng ta không chỉ nhằm phục vụ cho những mục đích ngắn hạn và tạm bợ trong cõi nhân sinh. Hãy làm cho chúng có ý nghĩa vĩnh cửu! Hãy hướng đến những mục tiêu cao cả hơn, vượt xa hơn kiếp sống trần gian này: hãy đầu tư cho cuộc sống vĩnh cửu! Nói như vậy không có nghĩa là chúng ta chỉ sống trên mây trên gió. Không, chân chúng ta vẫn đạp đất, tay chúng ta vẫn làm việc như bao người khác. Nhưng cho dù phải hy sinh những vui thú ở đời, cho dù không thành công trong quan niệm xã hội, cho dù bị xem là thiệt thòi, cho dù thế nào đi nữa, đầu chúng ta vẫn phải luôn hướng lên trời cao. 

Cuối năm phụng vụ cũng là cuối tháng 11 cầu nguyện cho những tín hữu đã qua đời, đây là dịp thuận tiện để chúng ta tạm dừng lại để suy nghĩ, cân nhắc, sắp xếp lại bậc thang giá trị cuộc sống: cái gì được ưu tiên hàng đầu, cái gì ít ưu tiên hơn, để rồi tiếp tục hành trình cuộc sống một cách khôn ngoan hơn với một tinh thần phấn chấn hơn, tâm trí sáng suốt hơn. Nhờ đó, khi đối mặt với chông gai thử thách, chúng ta không còn lo ngại hay nản chí. Khi gặp thành công rực rỡ, chúng ta không kiêu ngạo hay ngủ quên trong chiến thắng. Và rồi khi cuộc đời về chiều, chúng ta biết chắc được mình đã tạo lập một sự nghiệp vững vàng, không phải là nhà cửa tiền bạc để lại cho con cái, mà là những gì chúng ta đã đầu tư cho sự nghiệp vĩnh cửu, để rồi thanh thản chuẩn bị những hành trang cuối cùng cho con thuyền rời bến trần gian đi đến cuộc sống thiên thu bất tận.

Cao Viết Tuấn

TRIỂN LÃM HỘI HỌA: “NÉT ĐẸP CÔNG GIÁO”


– Địa điểm: Nhà Thờ Thái Hà (180/2 Nguyễn Lương Bằng, Đống Đa, Hà Nội)

– Thời gian: Lúc 15 giờ, ngày 22/11/2018 đến ngày 30/11/2018; cao điểm là buổi tọa đàm lúc 15 giờ 00, thứ Năm ngày 29 tháng 11 năm 2018, dưới sự chủ tọa của cha Vinh Sơn Phạm Trung Thành


– Đơn vị tổ chức: Tông đoàn Gioan Phaolô II, Giáo xứ Thái Hà

– 36 tác phẩm của 16 hoạ sĩ Công giáo và ngoài Công giáo
……….

TRIỂN LÃM HỘI HỌA: “NÉT ĐẸP CÔNG GIÁO”


Nhân kỷ niệm 30 năm (1988- 2018) các thánh tử đạo Việt Nam được tôn phong hiển thánh, Tông đoàn Gioan Phaolô II tổ chức tuần lễ triển lãm hội họa, với chủ đề “Nét đẹp Công giáo”.

Triễn lãm trưng bày 36 tác phẩm của 16 họa sĩ Công giáo và ngoài Công giáo. Đây là lần đầu tại khuôn viên nhà thờ Thái Hà trưng bày các bức họa theo chủ đề đức tin. Dù thời gian chuẩn bị gấp, hơn nữa đa số các họa sĩ tham gia chưa phải người Công giáo, nên không tránh khỏi những giới hạn trong việc diễn tả nghệ thuật hội họa Công giáo. Tuy nhiên, với nền tảng học thuật, với tài năng và đam mê, các họa sĩ đã mang tới triển lãm số lượng tác phẩm vừa phong phú về thể lọai vừa đa dạng về chất liệu. Đây là nỗ lực sáng tác của các họa sĩ nhằm diễn tả và quảng bá “Nét đẹp Công giáo”, vốn đã nằm sâu trong văn hóa Kitô giáo. Hy vọng khi thưởng lãm các tác phẩm được trưng bày tại triển lãm, chúng ta cảm nghiệm sâu hơn cái đẹp bao la, tiềm ẩn trong vũ trụ như Kinh thánh diễn tả: “Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, không trung loan báo việc tay Người làm” (Tv 19,2).

Tuần lễ triển lãm diễn ra từ ngày 22/11/2018 đến ngày 30/11/2018; cao điểm là buổi tọa đàm lúc 15 giờ 00, thứ Năm ngày 29 tháng 11 năm 2018, dưới sự chủ tọa của cha Vinh Sơn Phạm Trung Thành, CSsR, thư ký Ủy ban Nghệ thuật thánh, trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam.

Tổ chức tuần triển lãm, cha Linh hướng và anh chị em Tông đoàn Gioan Phaolô II không có mục đích nào ngoài tâm tình tri ơn và tôn vinh các thánh tử đạo Việt Nam. Các ngài không chỉ gieo trồng hạt giống đức tin vào tâm hồn người tín hữu, mà còn bằng lời giảng dạy, các tác phẩm văn chương hội họa, nhất là bằng chính việc hiến dâng mạng sống mình, các ngài đã góp phần tinh túy, sâu xa vào kho tàng văn hóa và hội họa Việt Nam.

Chúng tôi chân thành cảm ơn các họa sĩ đã gửi tác phẩm tham gia triển lãm, đặc biệt nhóm họa sĩ Sông Hồng. Mong rằng tuần lễ triển lãm này mở ra sân chơi bổ ích cho các họa sĩ và những ai quan tâm đến lãnh vực nghệ thuật hội họa Công giáo.


Nguồn: http://nhathothaiha.net/trien-lam-hoi-hoa-net-dep-cong-giao/



Sách Giu-đi-tha 

GIẢI NHẤT VỀ THƠ GIẢI VĂN HÓA ĐẤT MỚI 2018 

Sách Giu-Đi-Tha được tác giả Phêrô Bùi Văn Nghiệp chuyển thể thơ song thất lục bát, kể truyện bà Giu-đi-tha dùng mỹ nhân kế giết tướng giặc cứu dân Israel. Đây là một công trình đồ sộ, công phu và tài năng. Tác giả tỏ ra am tường các thể thơ truyền thống, hiểu sâu sắc Kinh thánh và có năng lực sáng tạo dồi dào. Tuy vậy, việc chuyển thể từ văn xuôi sang thơ sẽ bị hạn chế do yêu cầu của thể thơ, tác giả khó tránh khỏi. Xin trân trọng giới thiệu 4 chương cuối:

Chương 10:
Bà Giu-đi-tha và tường Hô-lô-phéc-nê 

(Gđt 10, 1-23) 

Lời cầu nguyện Chúa trên đã hết

Bà đứng lên quả quyết rời phòng

Gọi cô tỳ nữ tâm đồng

Mau mau chuẩn bị tháp tùng ra đi



Bà trút bỏ xiêm y thô trước

Tắm gội trong bồn nước tẩm hương

Điểm trang như một công nương

Ngọc vàng rực rỡ, kim cương chói loà



Nhìn dung mạo nơi bà thanh tú

Không một người phụ nữ nào so

Đàn ông ngắm nghía sững sờ

Nào rời đôi mắt ngẩn ngơ lạc hồn



Trao tớ nữ rượu ngon nhất mực

Túi bánh khô, lương thực cần dùng

Cả hai bình tĩnh vô cùng

Tiến ra cổng chính ung dung chuyện trò



Hai kỳ mục bất ngờ loá mắt

Ông Út-gia kinh ngạc thưa rằng:

Nguyện cầu Đức Chúa toàn năng

Giúp bà vượt thắng khó khăn trở về



Bà Giu-đích vỗ về cảm động

Xin các ngài mở cổng tôi ra

Mong sao lượng Chúa hải hà

Độ cho hoàn tất nước nhà bình yên



Lính canh luỹ ngạc nhiên bỡ ngỡ

Nhìn hai cô phụ nữ rời thành

Xuống đèo khuất dưới lũng xanh

Mọi người nghi vấn dữ lành đâu hay



***

Quân địch gác chặn ngay quát hỏi

Hai bà kia hãy nói đi đâu?

Nơi đây tuyến lửa hàng đầu

Là ai phái đến mau mau trả lời?



Tôi phụ nữ là người trên ấy

Dân Híp-ri đang phải bao vây

Đánh lừa trốn họ đến đây

Vì quân sắp sửa trói tay quy hàng



Tôi muốn gặp chủ nhân lãnh đạo

Tướng Hô-lô để báo nguồn tin

Đường chi xuất kích ưu tiên

Mà không thiệt mạng một binh sĩ nào



Trưởng toán gác không sao chớp mắt

Nhìn chăm chăm nhan sắc mười phần

Quả là tuyệt thế giai nhân

Trên đời duy nhất chỉ nàng này thôi



Nó nhỏ nhẹ chúng tôi dẫn hướng

Vào doanh đoàn gặp tướng Hô-lô

Trăm binh hộ tống đừng lo

Đên nơi đến chốn hầu cho bảo toàn



Trước thủ lãnh lòng an chớ sợ

Cứ tâu trình nguyên cớ từ đâu

Ông ta cư xử hàng đầu

Yên tâm bày tỏ trước sau sự tình



Trong doanh trại quân binh lố nhố

Chạy ra nhìn mắt trố ngạc nhiên

Thấy bà xinh đẹp thiên duyên

Trầm trồ bàn tán đúng tiên khác nào



Các cận vệ dẫn vào trướng phủ

Tưóng Hô-lô mắt đổ hào quang

Người đâu duyên dáng đài trang

Trong lòng ngơ ngẩn ngắm nàng dung nghi



Bà phủ phục cúi quỳ xuống đất

Tướng vội vàng lật đật dìu lên

Truyền quân giải tán cho yên

Mời vào đàm đạo đôi bên giãi bày





CHƯƠNG 11:
Hội ngộ lần đầu giữa bà Giu-đi-tha và tướng Hô-nô-phéc-nê 

(Gđt 11, 1-23) 



Này bà khách vào đây chớ hãi

Hãy bình tâm thoải mái đừng lo

Về cùng đại đế Na-bu

Là ta chẳng hại dù cho thể nào



Nếu dân tộc bà đâu kình chống

Đừng khinh thường ta cũng bỏ qua

Chính là nó tự bày ra

Tự mỉnh rước hoạ phải sa khổ sầu



Vậy cứ nói vì sao bỏ trốn

Rồi an lòng nếu muốn ở đây

Không hề bất cứ một ai

Dám đâu cư xử oan sai điều gì



Xin Cho phép nữ tỳ đây nói

Chẳng bao giờ giả dối một câu

Nếu cho thực hiện yêu cầu

Chúa tôi sẽ trợ hàng đầu lợi thu



Nhân danh đức Na-bu đại đế

Nước uy cường cái thế vô song

Chính vua tuyển chọn tướng hùng

Hô-lô ngài đó đến cùng chúng tôi

Chuyên sửa dạy trăm nơi liên tục

Các quan quyền quy phục tôn danh

Đoàn quân bách chiến tung hoành

Lừng vang ngưỡng mộ từ thành đến thôn



Thật quả thế tiếng đồn nô nức

Tướng điều hành, thao lược tài ba

Tầm nhìn kiến thức sâu xa

Khắp trên thế giới ai mà dám so



Lời nói của Khi-ô lúc trước

Xin điều nghiên cho được rõ ràng

Mong ngài để ý lưu tâm

Ông ta nói thật bày phân đủ lời



Quả nòi giống chúng tôi còn đó

Là vì do ăn ở đàng hoàng

Một khi đắc tội Thiên nhan

Thì ngay lập tức giáng tràn tai ương



Nay họ đã cùng đường bí lối

Mắc sai lầm đưa tội vào thân

Chúng nay vi phạm lời răn

Ghi trong giới luật không năng tuân hành



Nước khan hiếm giết nhanh gia súc

Lương cạn khô quả bứt không chừa

Bao nhiêu lễ vật đầu mùa

Chúng ăn hết sạch chẳng đưa vào đền



Những thực phẩm đầu tiên như thế

Phải đem hàng tư tế tiến dâng

Dân nào được phép dám ăn

Tự vương vào luật tất mang hoạ trừng



Đức Chúa đã nổi bùng phẫn nộ

Dùng tay ngài phế bỏ dân hư

Chúa sai tôi trốn bất ngờ

Đến cùng chủ tướng trình thưa tỏ tường



Phận nhi nữ đây thường tuân thủ

Sớm hôm thờ Chúa Đấng của tôi

Nay xin được ở tạm thời

Trong dinh chủ tướng là nơi an toàn



Nhưng đêm tối xin ban được phép

Ra bờ khe tịnh khiết nguyện cầu

Chúa tôi sẽ tỏ khi nào

Ra tay trừng trị bọn cao ngạo này



Ngài xuất trận không ai dám chống

Tôi dẫn đường mọi chốn khắp nơi

Bộ binh chiến mã rền trời

Xẻ sông đạp núi như chơi lo gì



Những sự ấy hằng ghi trong não

Bởi linh thần mách bảo đâu sai

Truyền cho thuật lại cùng ngài

Thời cơ đã đến nay mai rất gần



Lời lẽ thốt nở gan tướng giặc

Lại đê mê nhan sắc tuyệt trần

Quả tình đi khắp nhân gian

Chưa từng thấy kẻ dịu dàng như cô



Đầy phấn khởi Hô-lô lên tiếng

Chúa của bà cao kiến uy linh

Quả nhiên cơ trí thông minh

Sai người đi trước báo tin cơ đồ



Để ta nắm bàn cờ chiến cuộc

Và bên kia toàn quốc diệt vong

Nếu mà mỹ mãn thành công

Chúa bà tôi cũng hết lòng kính tôn



Bà duyên dáng, mỹ ngôn dịu ngọt

Sẽ ở trong cung ngọc đức vua

Kim cương vàng bạc dư thừa

Lừng danh cõi đất kẻ đưa người hầu




CHƯƠNG 12: 


(Gđt 12, 1-9) 



Tướng ra lệnh yêu cầu thuộc cấp

Dọn căn phòng đẹp nhất trong dinh

Truyền cho thết tiệc linh đình

Bày toàn rượu quý chân tình quan tâm



Bà Giu-đích ân cần thưa bẩm

Tôi chỉ dùng thực phẩm mang riêng

Kẻo vi phạm luật thiêng liêng

Mong ngài thứ lỗi xin kiêng thứ này



Tướng han hỏi bằng đây lương thực

Nếu vơi rồi biết lục tìm đâu

Không ai cung cấp nhu cầu

Làm chi có được cho hầu tồn sinh



Thưa chủ tướng nghĩ tình cũng đúng

Nhưng chưa dùng hết những lương trên

Chúa Trời sẽ đến ngay bên

Thực hành quyết định nhãn tiền cho ta



Bà đi ngủ canh ba thức dậy

Xin ra ngoài nguyện cậy Chúa cao

Hô-lô ra lệnh mau nào

Để cho người ấy thỉnh cầu tự nhiên



Bà xuống suối trầm mình trong nước

Khi lên bờ quỳ ngước trời xanh

Xin cho ý sớm tựu thành

Chúa ban hồi phục an lành dân riêng



Bà Giu-đi-tha dự tiệc với tướng Hô-nô-phéc-nê 


(Gđt 12, 10-20) 



Ngày thứ bốn tướng truyền thết tiệc

Chỉ cho vời thân thiết văn nhân

Không hề có một võ quan

E rằng thô lỗ cộc cằn mất vui



Bụng lo ngại sợ cười chê trách

Nếu mai này nàng tách ra đi

Để ta ôm mối tình si

Mất đi cơ hội ôm ghì giai nhân



Tên hầu cận gặp nàng thưa rõ

Chủ tướng tôi muốn ngỏ mời bà

Từ nay nương tử sẽ là

Trở thành phụ nữ Át-sua trong triều



Nên thủ lãnh ghi điều thực hiện

Để uống mừng kỷ niệm ngày vui

Xin không thoái thác thỉnh mời

Kính mong thượng khách nhận lời chuyển trao



Giu-đích nói tôi nào dám cưỡng

Hễ điều gì chủ tướng bảo ban

Tất nhiên chẳng dám từ nan

Còn vui vì được ngài quan tâm nhiều



Bà đứng dậy mỹ miều tô điểm

Trang sức cho kiều diễm dung nhan

Nữ tỳ theo bước lên đàng

Hương bay vương toả không gian thơm lừng



Nữ tớ trải thảm nhung xuống đất

Bà quỳ lên cúi mặt sấp mình

Hô-lô đờ đẫn mê nhìn

Ngất ngây nâng dậy sóng tình trào dâng



Nỗi thèm khát gối chăn nung cháy

Mời em ngồi, ta hãy uống chung

-Thiếp xin hầu rượu chàng dùng

Chiều nay vinh hạnh kính mừng tướng quân



Bà dùng những thức ăn mang sẵn

Còn Hô-lô say đắm uống tràn

Bình sinh mới được một lần

Ngồi bên mỹ nữ chuốc toàn rượu sang





CHƯƠNG 13: 


(Gđt 13, 1-10) 



Đêm khuya đến tiệc tan kết thúc

Các quan quyền lục tục cáo lui

Cửa dinh khép lại xong xuôi

Chỉ còn Giu-đích với người thù nhân



Dặn tớ nữ mau chân lui bước

Vực Hô-lô đã khướt lên giường

Li bì say rượu đắm hương

Lay hoài chẳng tỉnh nằm ườn mê man



Cửa chốt lại, thầm van Đức Chúa

Xin nhìn xem việc của con làm

Ra tay cứu mạng muôn dân

Sa-lem vĩnh viễn thoát ngàn nhuốc nhơ



Đây là lúc đến giờ thuận tiện

Xin ban ơn thực hiện thành công

Tướng thù ngay trước mặt con

Nó là đầu mối tạo cơn đoạn trường



Bà tiến đến bên giường tướng giặc

Nhẹ nhàng nâng rút phắt đại đao

Cánh tay hết sức nâng cao

Chém liền hai nhát lìa đầu khỏi thân



Bà kéo xác cho lăn xuống đất

Bỏ vào bao thủ cấp tướng thù

Trao cho tỳ nữ đang chờ

Hai người thong thả ra bờ suối khe



Quân lính gác đâu dè cứ tưởng

Như thường kỳ bà xuống hằng đêm

Từ khe đi ngược phía trên

Bàn chân thoăn thoắt tiến lên thành nhà



Bà Giu-đi-tha đem thủ cấp tướng Hô-nô-phéc-nê về Bai-ty-lua 


(Gđt 13, 11-20) 



Hỡi các vị mau ra mở cổng

Đức Chúa Trời hằng sống ở cùng

Hôm nay Ngài tỏ uy hùng

Ra tay triệt hạ bọn hung tàn rồi



Quân canh gác vội mời kỳ mục

Chạy xôn xao lập tức mở thành

Toàn dân kéo đến vây quanh

Không ngờ bà lại thân hành về đây



Bà Giu-đích nói ngay dõng dạc

Xin ca khen Đấng tác tạo loài

Chúa thương dân tộc ra tay

Cho thân nhi nữ diệt bày hiểm hung



Lôi thủ cấp nói cùng dân chúng

Đây là đầu chủ tướng Hô-lô

Chỉ huy quân đội Át-sua

Bàn tay yếu ớt đã vừa chém xong



Có Đức Chúa hằng thông thấu đủ

Nhan sắc này quyến rũ tướng quân

Chưa hề phải nhuốc tấm thân

Nó đà mất mạng ơn thần giúp cho



Họ kinh ngạc quỳ bò sát đất

Lạy Chúa Trời, Ngài thật từ tâm

Ra tay huỷ diệt thù nhân

Chúng tiêu vong mạng toàn dân nhảy mừng



Thủ lãnh Út nói cùng Giu-Đích

Chúa Trời ban ơn ích biết bao

Hỡi trang nữ kiệt má đào

Bà hơn tất cả anh hào nam nhi



Chúc tụng Chúa quyền uy khôn sánh

Dùng tay bà chặt cánh Na-bu

Bây giờ cho đến ngàn thu

Cường nhân khiếp vía quân thù kinh tâm



Nguyện xin Chúa ban muôn ân phước

Vì yêu thương đất nước nguy nan

Bà liều mạng sống cứu dân

Chặt đầu tướng giặc kiêu căng hỗn hào



Khi nòi giống lâm vào điêu đứng

Đã ra tay giữ vững sơn hà

Đồng thanh tán tụng vang ca

Nguyện xin Chúa ở cùng bà. A-men


Phêrô Bùi Văn Nghiệp 

(Gx Tân Hưng, Hạt Hóc Môn, Giáo phận Sài Gòn)