CHÀO MỪNG THI CA CẦU NGUYỆN TRÒN 400 SỐ 


Trăng Thập Tự xin chúc mừng Cao Huy Hoàng (lời ca ngợi cho Ánh Dương rực rỡ trên cao) dù sức khỏe mấy năm qua không ổn định đã chạy suốt một quãng đường dài kỷ lục. Đang khi Mục Đồng của TTT ì à ì ạch chưa tới số 8 thì Chúa nhật 04-11 này Thi Ca Cầu Nguyện của CHH đã tới số 400: 400 tuần cầu nguyện bằng thơ.  (Mỗi kỳ báo trung bình 25 bài thơ, 400 kỳ hơn 10.000 bài thơ ca tụng Chúa.)

Xin chúc mừng Chủ biên Paul Marie và các cộng sự viên của Thi Ca Cầu Nguyện. Xin góp một lời cùng các bạn ca mừng tình yêu và ân sủng Chúa đã dẫn đưa Thi ca Công giáo Việt Nam trên hành trình lịch sử. 

Còn nhớ tháng Mười năm 1978, Thánh Gioan Phaolô II vừa đắc cử Giáo Hoàng đã vói tay kính chào năm 2000 khiến bao nhiêu người trên trái đất được cuốn vào một niềm hy vọng mênh mông. Mười tám năm sau, khi sức khỏe của ngài bắt đầu có vấn đề, Trăng Thập Tự đã nhìn qua bên kia cột mốc 2000 để cầu nguyện cho ngài với bài thơ sau đây. Mến chúc Cao Huy Hoàng và các bạn thơ Công giáo Việt Nam cũng miệt mài với sứ vụ quy tụ lòng người cho Chúa như ngài và như ngôn sứ Êlia xưa.

[Tác giả nào muốn tham gia và độc giả nào muốn nhận Thi Ca Cầu Nguyện qua email, xin liên lạc về: pmcaohuyhoang@gmail.com

ÊLIA 

Kính dâng ĐGH Gioan Phaolô II, vị ngôn sứ của ngàn năm thứ ba. 



Cuộc săn đuổi dồn chân con lên núi, 

Trăng và đêm quyến rũ mê hồn. 

Con nằm đây chết chẳng cần chôn, 

Đã có cây đá, gió rừng, thú hoang làm bạn. 

Ôi Đức Chúa, bởi chính Ngài đã phán, 

Con mới tàn đời, kiệt sức, mòn hơi. 

Nhưng dù sao, đã nói được đôi lời, 

Con chết cũng cam mà, lạy Chúa. 

Con có hơn gì cha ông, tổ phụ, 

Có nợ nần gì với cuộc đời kia? 

Giữa sa trường, con được dựng làm bia, 

Ngàn phát súng, khói um, bụi mù, không ai thấy gì, 

Ngài đã lôi con chạy thóat. 

Con là chi để được Ngài chiếm đoạt? 

Con đã thuộc về Ngài, ôi Chúa của con ơi ! 

Dù sao, con đã nói được đôi lời, 

Cho con chết đi, đủ rồi, Lạy Chúa. 

Giữa đêm khuya, có tiếng cười sặc sụa, 

Con nhìn quanh: Ma quái ở đâu đây? 

Con nhìn trời: trăng đã chết sau mây, 

Đá, núi, cỏ cây trở thành âm binh hàng 
đàn hàng lũ. 

Những tiếng thét, tiếng gầm, tiếng rú, 

Con vẫn trơ trơ, con có sợ gì, 

Lại còn mừng, biết đâu chúng chẳng giết con đi 

Như lòng con mong đợi: 

Con đang cám ơn Chúa thì trăng dần sáng lại, 

Gió diù dịu ru con êm ái 

Và lời thiêng phả nhạc trong lòng. 

Con hiểu rồi, sứ vụ chưa xong, 

Vì còn đó hàng ngàn người cần nâng đỡ: 

Những kẻ không tế thần, 

Những người khốn khổ, 

Những bầy chiên bơ vơ không có người chăn, 

Những anh em hụt hơi, chết đuối, 

Tuyệt vọng đau thương, 

Những anh em đang cần hướng đạo. 

Cám ơn Chúa đã ban lời ủy lạo, 

Lời tan trong miệng con như một miếng đường, 

Ngọt lịm và làm cho hồi sức. 

Con đứng dậy thấy trăng đang thức, 

Trăng đầy trời, ơn phước mênh mông. 

Dưới kia lung linh cả một cánh đồng, 

Bên dòng sông đang chia lịch sử. 

Hãy gặt về, hãy gìn, hãy giữ, 

Còn phải chèo đò sang gặt cả mé bên kia. 

Và miệt mài, con bước dưới trăng khuya, 

Chợt nhớ chuyện cái chết của mặt trời và 
cười vang sông núi. 

Cái hôm cả cuộc đời reo vui như hội, 

Xem bóng trăng đen đủi lấn mặt trời. 

Chú tiểu đồng ôm con khóc: “Cha ơi, 

Hãy cứu lấy, dừng để mặt trời bị giết!” 

Nhật thực toàn phần, đứa bé kêu thống thiết, 

Sắp xỉu đi vì trời đất tối sầm. 

Con ghé tai chú bé thì thầm, 

Nó mở mắt trừng trừng, reo mừng mặt trời sống dậy. 

Ơi, cái ông mặt trời hôm ấy 

Lát nữa thôi là tỏa khắp dương gian. 

Ánh sáng tràn lan 

Và cuộc đời hạnh phúc. 

Con bước tới cho đêm dài mau kết thúc, 

Còn phải kêu thêm thuyền cho mẻ cá của ngư ông, 

Còn phải gặt về cả mé bên kia sông. 

Con ngoảnh lại phía rừng, ngó thử: 

Con thỏ bạch quỳ dưới chân thập tự, 

Hòa ánh trăng vào ánh bình minh. 


Đà Lạt, 25.11.1995 

Trăng Thập Tự 


hình minh họa

Hồi nhỏ, nếu có ai hỏi nó sợ giờ nào nhất trong ngày, nó sẽ trả lời ngay: giờ kinh tối.

Hồi đó ba má đi làm cả ngày. Tối về cả gia đình mới có dịp gặp nhau trong bàn ăn tối. Ăn tối xong, anh chị lớn thì muốn đi chơi với bạn, mấy đứa nhỏ thì thích xem Tivi, ba thì ngày nào cũng chỉ lặp lại một câu đơn giản: "Đọc kinh cái đã rồi muốn làm gì thì làm!" Giọng của ba to, và tính của ba cứng lắm, đố đứa nào dám cãi.

Cuối giờ Kinh, ba bắt đầu hỏi thăm chuyện học hành của từng đứa một. Sau đó là chuyện anh chị em ở nhà với nhau ra sao. Đứa nào có gì sai là bị xử ngay tại chỗ. Anh chị em có gì hục hặc thì ba bắt phải xin lỗi nhau ngay trước mặt ba, trước bàn thờ Chúa.

Giờ đứa nào cũng lớn. Mỗi đứa một nơi. Lâu lắm mới có dịp họp mặt gia đình. Tối, vừa ăn cơm xong là mấy đứa cháu nhỏ đã cắm đầu vào điện thoại để chơi games. Mấy người lớn thì vừa gầy sòng đánh bài vừa mở Karaokê hát vang cả nhà. Vui thật là vui. Nhưng vẫn thiếu thật là thiếu.

Ba bây giờ đã yếu, giọng không còn được to và tính không còn được cứng như ngày xưa nữa. Sau giờ cơm tối, một mình ba ngồi riêng một góc để lần hạt.

Tiếng kinh tối của ba chỉ còn lầm rầm, lạc hẳn giữa những ồn ào vui nhộn của đàn con cháu.

Cao Gia An, S.J.
Nguồn: https://caogiaan.wordpress.com/2018/10/17/kinh-toi-2/


Kinh nguyện Các Thánh


Kính mừng Nam Nữ Thánh Nhân. 

Chúng con tín hữu phàm trần ngước lên 

Với lòng thờ lạy kính tin, 

Đội ơn Thiên Chúa uy quyền thưởng công. 

Vì xưa các thánh dốc lòng 

Vâng theo Ý Chúa lập công Nước Trời. 

Vững tâm mến Chúa yêu người, 

Vượt qua thử thách sống lời Thánh Kinh. 

Ngày nay chư Thánh hiển vinh, 

Muôn đời hưởng phúc Thiên Đình cao sang. 

Chúng con còn ở thế gian 

Ba thù quấy quất tràn lan tư bề. 

Nguyện xin chư Thánh chở che 

Qua lời cầu Chúa hướng về chúng con 

Ba Ngôi Thiên Chúa Chí Tôn 

Xót thương dân Chúa đang còn long đong 

Phong ba, Giáo Hội giữa dòng 

Suy đồi văn hoá, tryền thông vô thần… 

Noi gương dũng cảm thánh nhân 

Truyền thông rao giảng Phúc Âm Thánh Truyền. 

Quyền năng Thiên Chúa vô biên 

Chúng con hết thảy đức tin vững vàng 

Đời này vững bước hiên ngang , 

Đời sau hưởng phúc Thiên Đàng hiển vinh… 

A men 

Thế Kiên Dominic 



CHUYỆN ĐÃ XẢY RA NGAY TRÊN ĐẤT SÀI GÒN 


Hôm nay ở trong khắp các giáo đường Thiên Chúa giáo, người ta sẽ kể cho nhau nghe về chuyện anh chàng mù thành Giêricô được Chúa Giêsu chữa cho khỏi bị mù. Còn tôi, tôi sẽ kể cho bạn nghe về một chuyện đã xảy ra ở ngay đất Sài Gòn: 

Mùa xuân năm 1982. Bước vào tuổi 17, tôi đã bị bệnh tiểu đường type I, và thời gian đó tôi đã không còn nhìn thấy chữ trên trang sách. Bây giờ nhớ lại, tôi thấy mình thật hạnh phúc vì đã vượt qua được rất nhiều con dốc mà không hề vấp ngã. Khi đó, tôi đã tưởng mình là người bản lãnh cho nên mình mới có thể vững vàng được như vậy. Bởi vì, những ngày tháng tôi vật lộn với bệnh tật đó, với một bản án lơ lửng trên đầu là có một ngày kia tôi sẽ không nhìn thấy gì nữa, thế mà người thân và bạn hữu tôi chẳng ai biết là tôi đang đón chờ điều sắp xảy ra! Thật may mắn cho tôi, sau đó tôi lại có thể đọc được chữ, dù là rất khó khăn, tôi lại tiếp tục học hành, đi dạy học, rồi nghỉ dạy thì đi buôn bán. Kể cũng đã kéo dài thêm được 11 năm, 11 năm đó đã giúp tôi tích lũy cho mình biết bao kinh nghiệm sống, để giờ đây tôi có vốn liếng mà tiêu xài.

Tôi mù hẳn vào cuối năm 1993, khi sức khỏe càng ngày càng xuống cấp, khi chẳng có chút tiền tài danh vọng trong tay. Tôi đã bám víu vào Chúa như một người đang bơi giữa dòng sông bão tố vớ được chiếc phao. Trong suốt 8 năm đầu tập thích nghi với cuộc sống trong bóng tối và vật lộn với bệnh tật, tôi đã hiểu ra siêu giá trị của thập tự. Những ngày ấy, tôi bị những chứng đau nhức thần kinh, mất ngủ kéo dài, tay chân đi đứng khó khăn, những cử động rất nhỏ nhặt cũng khiến tôi đau ói mửa liên tục mà không thuốc gì ngăn nổi. Đôi khi tôi phải uống nhiều nước vào để có cái mà ói ra... Tôi cứ nằm chịu trận, chờ cơn đau đến rồi cơn đau lại đi, sau khi tôi đã phó dâng và suy nghĩ về những dấu đinh của Chúa Giê-su... Tôi cũng chẳng muốn rên rỉ tâm sự với ai ngoài Chúa Giê-su, vì ai mà thích nghe những điều ấy mãi? 

Giáng sinh năm 2001, tôi quyết định đi dự lễ tại nhà thờ Đức Bà, lễ này được tổ chức đặc biệt cho người khuyết tật. Mặc dù tôi đã nghe nói về chữ Braille, nhưng vẫn hết sức ngạc nhiên khi em gái tôi cho biết người đang đọc Thánh Thư là một người mù. Giọng cô bé đọc rất dễ thương và trôi chảy! Sau đó, tôi tìm đến Mái Ấm Thiên Ân học chữ nổi và sử dụng computer với thầy Phong. Chưa hết, tôi lại gặp một trở ngại mà tôi và thầy Phong đã không ngờ đến. Những đầu ngón tay phải của tôi cảm giác rất kém, không nhận biết được các ký hiệu của những chấm nổi. Cuối buổi học thứ hai, khi tôi sắp phát khóc vì sợ rằng phải bỏ cuộc, tự nhiên tôi đưa ngón trỏ trái lên rờ vào hàng ký hiệu thì nhận ra cảm giác khá hơn. Cuối cùng, tôi cũng đọc được chữ nổi, tuy có chậm hơn bạn bè song tôi vẫn nhận ra rằng Chúa đã mở ra cho mình một cánh cửa rộng lớn từ đây. Tôi bắt đầu học tập và hòa nhập trở lại với cuộc sống bình thường. Tôi tự tin trở lại, giao tiếp, sinh hoạt với cộng đồng người khuyết tật và tập thể dục để tăng cường sức khỏe. Thời gian đầu, vì không có nhiều sách chữ nổi để đọc, tôi miễn cưỡng đọc những cuốn Kinh Thánh. Tôi ngạc nhiên nhận ra rất nhiều điều thiết thực Chúa dạy mà trước đây tôi đã nghe như “nước đổ đầu vịt”. 

Lời Chúa chỉ cho tôi cạm bẫy, hố sâu, vực thẳm để tôi khỏi sa chân lỡ bước. Lời Chúa chỉ cho tôi lối sống công bình, bác ái, và phục vụ anh em. Lời Chúa dạy cho tôi biết sống khoan dung với người anh em hèn mọn, yếu đuối nhưng không khoan nhượng những điều sai trái, gian manh. Lời Chúa giúp tôi hiểu ra rằng, nếu tôi tha thứ cho anh em mình thì tôi sẽ được bình an và tự giải thoát mình khỏi hận thù ganh ghét. Lời Chúa giúp tôi sống có mục đích, có ý nghĩa và sống dồi dào bất kể thân xác tôi đã tàn tạ vì bệnh tật và bụi mờ của thời gian. 

Các bạn biết rõ Mặt trời to lớn và tỏa năng lượng đến mức nào, song một người mù như tôi chỉ cảm thấy nó khi có nắng ấm. Vào những ngày mưa gió lạnh lẽo, tôi không biết có sự hiện diện của nó cũng như ánh sáng chan hòa tỏa ra từ nó. Trái lại, những dòng chữ nổi như những hạt cát li ti trong cuốn Kinh Thánh ghi lại Lời Chúa có sức mạnh kỳ lạ. Những khi một mình trong bóng tối rờ rẫm những dòng chữ đó, tôi lẩm bẩm đọc và tự hỏi Chúa đang dạy tôi điều gì? “Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng..." Câu nói này của Chúa giúp tôi nhận ra bản tính kiêu căng của mình để mà sửa đổi... 

Ánh sáng cứ thế ùa vào tâm trí tôi, tràn ngập cả không gian khiến tôi hầu như không còn trở ngại gì về đôi mắt mù lòa. Thậm chí ngay cả ban đêm căn phòng của tôi chẳng tốn tiền thắp điện. Nhưng chính Lời Chúa đã thắp lên trong tôi một niềm tin và hy vọng vào sự Phục sinh của Con Người. Niềm tin ấy đã cứu chữa tâm hồn tôi khỏi mù lòa và cho tôi nhìn thấy được nhiều điều kỳ diệu của tạo hóa. 

Tôi nhìn thấy nỗi đau của ai đó qua giọng nói buồn hiu... Tôi nhìn thấy hạnh phúc của ai đó đang chờ tôi an ủi... Tôi nhìn thấy ánh mắt nghiêm nghị của Chúa Giêsu khi tôi làm ngơ trước sự van xin của đồng loại... Điều mà tôi nhìn thấy rõ nhất và kỳ diệu nhất là ánh sáng của Chúa, ánh sáng này đã dắt tôi qua vùng thung lũng tối với một tâm hồn tràn ngập bình an... Bạn ơi! Tôi đã tin và đã được nhìn thấy như thế đó!


(*): Tiêu đề cho BBT Mục Đồng online đặt. (xem thêm Tin Mừng Mc 10, 46-52)


Vô thanh, vô sắc, vô cầu,
Con cò dưới nắng, con trâu bên đồng.
Thuyền trôi lặng lẽ bên sông,
Ven đường rợp bóng cây trông lên trời.
Theo vòng khói thuốc xa khơi,
Chập chùng bể khổ chơi vơi phận người.
Quỳnh hương đêm vội mĩm cười,
Thuyền ai chiếc bóng đợi người chiều xa.
Đàn ai nhịp bản tình ca,
Trăm năm cổ độ cội già đứng nghe.

Bóng ai vừa bước qua hè,
Đèn cung thánh gọi ai về niệm kinh.
Ta tìm một cõi lặng thinh,
Vô cầu, vô sắc, vô thinh…nhiệm mầu !

Sơn Ca Linh
26.10.2018
Nguồn:  http://vietcatholic.com/News/Html/247235.htm
Có mối liên hệ nào giữa Kinh Thánh với ngày “Halloween”, một ngày lễ «ngoại giáo»? Từ «Halloween» có nguồn từ tiếng Anh là “all hallow’s eve”, nghĩa là «ngày trước lễ Các Thánh». Ngày lễ Các Thánh Nam Nữ được chọn để Kitô giáo hóa một ngày lễ hội ngoại giáo của người Celtic.

Isaac chúc phúc cho Giacóp - Tranh của Luca Giordano (1632–1705)

Halloween luôn gắn liền với các biểu tượng của sự chết và thế giới bên kia. Truyền thống hóa trang xuất phát từ niềm tin về sự hiện diện của người chết, họ trở về để ám ảnh người sống. Vì thế, ngày nay người ta vẫn còn hóa trang thành những quái vật, hồn ma hoặc các phù thủy để làm cho người ta tin rằng ma quỷ thật sự trở về để ám lúc đêm hôm khuya khoắc. Hóa trang không bắt nguồn từ Kinh Thánh. Trái lại, ý tưởng hóa trang thì lại khác. Sau đây là những trình thuật về hóa trang trong Kinh Thánh.

Hóa trang thành Êsau

Chuyện hóa trang nổi tiếng nhất là Giacóp đã dùng tấm da dê để làm cho tay mình thành lông lá giống như người anh là Êsau (Stk 27). Giacóp đã đánh lừa thành công người cha mù lòa khiến ông tin rằng mình đã chúc phúc cho người con cả.

Hóa trang thành cô điếm

Trong câu chuyện khó tin được thuật lại trong sách Sáng Thế Ký (chương 28), một phụ nữ tên là Tama đã hóa trang thành một cô điếm. Trong nền văn hóa này, khi người chồng qua đời thì anh em trai của người quá cố phải lấy người vợ góa làm vợ. Thế nhưng ông cha chồng không muốn Tama lấy người con trai út của mình. Cô đã thoát khỏi tình trạng này khi cải trang thành cô điếm để quan hệ tính dục với ông bố chồng của mình!

Hóa trang để thỉnh ý người chết

Chương 28 của sách Samuen I thuật lại câu chuyện vua Saun lo lắng về tương lai của mình vì cuộc chiến với quân Philistins. Vì thuật chiêu hồn bị cấm nên Saun phải hóa trang để khỏi bị nhận ra. Sau khi hóa trang, ông đi thỉnh ý bà đồng bóng để có thể liên lạc với ngôn sứ Samuen đã chết cách đấy vài năm. Vì giả vờ không khéo lắm nên bà đồng đã nhận ra ông. Hơn nữa, cuộc tư vấn cũng chẳng giúp ích gì nhiều vì ông tử trận sau đó.

(Đừng) hóa trang thành chiên hay thành Tông đồ

Tân Ước không tường thuật một nhân vật hóa trang nào cả. Trái lại, Tân Ước dùng sự hóa trang như một hình bóng để nói về những điều giả dối và láo khoét. Chẳng hạn, Tin Mừng Matthêô 7,15-16 nói rằng: “Anh em hãy coi chừng các ngôn sứ giả, họ hóa trang thành chiên mà đến với anh em; nhưng bên trong, họ là sói dữ tham mồi.» Trong những bản văn Tân Ước khác cũng nói lên sự dè dặt trước các ngôn sứ giả, họ dùng những lời dối trá để đánh lừa cộng đoàn. Trong 2 Cr 11, 13, Thánh Phaolô căn dặn phải coi chừng «những tông đồ giả, là thợ gian xảo, hóa trang thành tông đồ của Đức Kitô.»

Tóm lại, các trình thuật nói về hóa trang trong Cựu Ước hàm ý có sự đánh lừa hay đó là hoạt động trái phép. Tân Ước tiếp tục cách sử dụng tiêu cực này gắn liền với sự hóa trang để nói về các ngôn sứ giả.

Chúc một ngày Halloween … vui vẻ!


Sébastien Doane
Lm. Phaolô Nguyễn Minh Chính chuyển ngữ
http://conggiao.info/hoa-trang-trong-kinh-thanh-va-ngay-halloween-d-31710






Ai trong chúng ta khi dấn thân vào sứ mạng tông đồ ít nhiều cũng từng kiếm tìm những cách thức đơn giản nhất có thể nhằm giải thích sự hiện diện của Thiên Chúa, sao cho mọi người, ngay cả những người chất phát nhất cũng hiểu được.



Chúng ta vận dụng hết khả năng hầu thấu hiểu Ngũ Đạo (5 cách chứng minh sự tồn hữu của Thiên Chúa của thánh Tôma Aquinô), nỗ lực nghiên cứu và dịch thuật những Giáo Huấn của Giáo Hội. Chúng ta trích dẫn tư tưởng của các thánh, các vị giáo hoàng. Thậm chí, nhiều người còn sử dụng những phương thức sáng tạo hơn, hiện đại hơn như trình chiếu Video, thuyết trình với Powerpoint, hoặc lên Website Công giáo tìm kiếm những nguồn mới có thể sử dụng trong lớp học tôn giáo của mình.

Nhưng Thiên Chúa làm cho mọi thứ dễ dàng hơn chúng ta tưởng. Rốt hết, chính Ngài đã trở nên một con người đích thực. Ngài đã trải qua những kinh nghiệm rất đỗi con người, cũng đói, cũng rét, cũng mệt mỏi, cũng đau nhức như chúng ta. Chính vì vậy mà tất cả những kinh nghiệm mang chiều kích nhân loại đều có thể giúp chúng ta hiểu biết Thiên Chúa. Thiên Chúa hiện hữu tròn đây nơi mọi sự, bởi chính Ngài đã kinh qua mọi sự ấy và biến chúng thành những kinh nghiệm thánh thiêng.

Vì lẽ đó, hôm nay chúng tôi mang đến cho bạn một vài ý tưởng hầu giúp bạn nhận biết rằng Thiên Chúa đã “ở đó”, Ngài bước qua “nơi ấy” nhưng không ai nhận ra Ngài. Dẫu thế, Ngài vẫn luôn hiện diện, vẫn sẵn sàng lắng nghe bạn.

Chắc chắn bạn đã từng kinh nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời bạn; và đó là cách tuyệt vời để hiểu và diễn giải sự hiện hữu sống động của Ngài. Và đây, chúng tôi đưa ra 10 điều rất đỗi thân quen nhưng cho thấy Thiên Chúa hiện diện trong cuộc đời mỗi người:

1. Trong Lần Đầu Tiên Bạn Trở Thành Cha Mẹ

Thật khó để giải thích ý nghĩa của việc trao ban sự sống. Thiên Chúa mới chính là Đấng ban tặng sự sống, nhưng với tình yêu vô biên, Ngài cho phép chúng ta trở nên những người đồng sáng tạo và cộng tác vào kế hoạch yêu thương của Ngài. Ẵm trên tay một con người do bạn LÀM RA, nhưng con người ấy đồng thời cũng là một “sản phẩm” khởi phát từ Ý Muốn thánh thiêng của Thiên Chúa, điều này chắc chắn là một trải nghiệm linh thiêng đối với bạn.

2. Khi Bạn Cảm Thấy Ngỡ Ngàng Trước Một Bầu Trời Hùng Vĩ Bao La

Có những lúc ta nhận ra tầm nhìn và sự hiểu biết của mình thật nhỏ bé, và mọi thứ đều nằm trong tay một ai đó vĩ đại hơn ta. Con người không thể làm gì hầu thay đổi màu sắc trên bầu trời, hình dạng của những đám mây, ánh sáng xuyên qua cửa sổ. v.v. Và đó mới chỉ là những thứ ta thấy được! Còn biết bao điều khác vẫn tồn tại nhưng con người chẳng thể nào nhận ra, chẳng thể nào thấu hiểu!

3. Khi Chiêm Ngắm Chính Tay Của Mình

Đôi bàn tay hoàn hảo nhưng đồng thời lại vẫn chưa hoàn hảo; được thiết kế rất khéo léo, tinh tế, nhưng vẫn được đảm bảo mạnh mẽ, rắn chắc. Chiêm ngắm và bạn sẽ thấy đôi bàn tay ấy đã trải qua năm tháng cuộc đời với biết bao công việc lớn nhỏ khác nhau, nhưng nó vẫn là nó,…, và thật kỳ diệu: Thiên Chúa đã nghĩ về và thiết kế đôi bàn tay ấy cho bạn.

4. Khi Bạn Trò Chuyện Với Chính Mình

Mỗi người không đơn thuần chỉ là một khối xương thịt hay một vật thể mang một kết cấu cơ học nào đó. Có thứ gì đó bên trong thôi thúc họ vươn tới điều cao quí, nghiêng chiều về điều thiện hảo, và khát khao hướng về Thiên Chúa. Cứ trò chuyện và đối diện với chính mình, trả lời những câu hỏi, giải quyết những rắc rối,…, rồi bạn sẽ nhận ra mình không phải là một sản phẩm của một định mệnh mù quáng ngẫu nhiên. Sự hiện hữu của bạn vừa phức hợp, vừa toàn vẹn, đó là Thánh Ý và là kết quả của một sự sáng tạo vô biên từ Thiên Chúa.

5. Một Ngày Nào Đó Bạn Thấy Bình An Khỏa Lấp Cõi Lòng, Nhưng Bạn Chẳng Sao Giải Thích Được

Có những yếu tố ngoại tại làm nên sự tĩnh mịnh an nhiên, chẳng hạn như khi bạn được đảm bảo về tài chính, thể chất lành mạnh, gia đình êm ấm, được cư ngụ giữa mọi người. Nhưng ngay cả khi một khía cạnh nào đó trên đây không thành tựu như bạn mong chờ thì vẫn có đó những giây phút bạn cảm nếm thứ bình an sâu thẳm cứ xâm chiếm nội tâm bạn. Trước điều đáng ngạc nhiên ấy, bạn chẳng sao giải thích được. Cứ như thể có ai đó vừa đặt nó trong tâm hồn bạn.

6. Khi Bạn Cảm Nghiệm Mình Được Yêu Thường

Không chỉ là chuyện của việc đón nhận hay lòng tự trọng, kinh nghiệm mình được yêu thương còn cao cả hơn thế. Cảm thấy mình được yêu cũng là cảm thấy mình xứng đáng, và cũng là hiểu được mình thực sự có giá trị. Và ngay cả khi tình yêu mang tính nhân loại có bị giới hạn và đầy bất toàn, thì nó vẫn chất chứa một tia sáng giúp diễn tả Tình Yêu Thiên Chúa, và tình yêu nhân loại vẫn gợi lên trong bạn cảm giác mình được Thiên Chúa yêu thường.

7. Khi Những Thành Tựu Của Nhân Loại Khiến Bạn Ngạc Nhiên

Cứ như thể vẫn còn lại đây những hơi thở vốn tác thành mọi sự trong công trình tạo dựng. Chúng ta thấy mình rất gần gũi với trí khôn nhân loại và thân quen với tốc lực mà trí khôn ấy hằng ngày xử lý các vấn đề, những bất tiện, và ngay cả nhiều điều ta không biết mình đã ước ao. Thế nhưng ta lại không nhận ra rằng chỉ cần lui lại đôi bước là ta có thể chiêm ngắm và cảm thấy ngỡ ngàng trước sự thực con người được dựng lên và cách mà Thiên Chúa trao cho con người trí khôn để cộng tác vào công trình sáng tạo của Ngài. Với trí khôn được lãnh nhận, con người làm nên những điều đáng kinh ngạc như dựng xây những tòa cao ốc chọc trời. Và với cùng trí khôn ấy, họ tạo ra cả những điều đơn giản như chiếc muỗng nhỏ xinh.

8. Khi Thấy Người Chúng Ta Ít Mong Đợi Nhất Có Được Niềm Tin

Thường thì người ta hay đưa ra những xét đoán không có chủ đích về đời sống và Đức tin của người khác. Và họ cũng thường “chẩn đoán” một vài người như những kẻ “chẳng thể nào đem lại niềm hy vọng,” bởi vì họ nghĩ rằng trong hệ thống những giá trị của những người này, kinh nghiệm về Đức tin là điều không phù hợp. Nhưng khi nhận ra một vài trong số những “con chiên bị đã mất” này tỏ cho thấy một dấu chỉ của Đức tin trong họ, lòng chúng ta bừng sáng và niềm hy vọng được hồi sinh. Khi nhìn thấy họ làm dấu Thánh Giá, nói về Thiên Chúa, chia sẻ những sứ điệp, những trích dẫn về Thiên Chúa và Đức tin, và cả khi họ xin ta cầu nguyện cho họ, lúc ấy, lòng ta ngập tràn tình yêu Chúa, như thể ta hiểu rõ sự thật rằng Thiên Chúa ngự trị cả trong tâm hồn những người mà ta ít mong chờ nhất.

9. Lúc Mọi Thứ Trở Nên Tốt Hơn Sau Khi Thấy Mình Đã Mất Hết Niềm Hy Vọng

Đôi khi có vẻ như Thiên Chúa đang chờ chúng ta chạm tới những giới hạn của mình, và khi ta chẳng thể làm gì khác, lúc ấy Ngài mới bắt đầu ra tay. Điều này xảy ra cho chúng ta cũng giống như những cánh cửa vốn bị đóng kín mà nay được mở toang. Và tình huống, và cuộc vật lộn vốn bị xem là “vô phương cứu chữa” này, giờ đây lại được giải quyết gọn gàng trong giây lát.

10. Khi Ta Đồng Hành Với Một Người Thân Yêu Trong Những Giây Phút Cuối Đời Họ

Những giây phút này gợi lên một niềm đau xót, tuy nhiên, dưới ánh nhìn Đức tin, chúng ta lại được khích lệ, được ủi an để đồng hành với người thân yêu và chiêm ngắm việc họ lên đường để gặp gỡ Thiên Chúa của họ trong bình an sâu thẳm. Những ai đã từng đồng hành với người thân yêu trong những khắc cuối đời có thể được chứng kiến một cảm xúc mãnh liệt phút chia li, nhưng cũng thấy một sự bình an và niềm an ủi sâu sắc khi biết rằng người thân yêu ấy đã lên đường trở về nhà để ở cùng Thiên Chúa của họ.

Tác giả: Sebastian Campos

Chuyển ngữ: Đaminh Phan Quỳnh, SJ

(dongten.net 13.09.2018/ catholic-link.org)

MICHELANGELO (1475-1564) - "NGƯỜI KHỔNG LỒ" CỦA THỜI PHỤC HƯNG, NGHỆ SĨ VĨ ĐẠI NHẤT TRONG LỊCH SỬ NGHỆ THUẬT CÔNG GIÁO


Không chỉ là điêu khắc gia, Michelangelo còn là họa sĩ, kiến trúc sư, nhà thơ, và là kỹ sư. Trong lĩnh vực nào, ông cũng có những thành tựu xuất sắc. Không chỉ thành tựu, ông còn là tấm gương về niềm say mê với sức sáng tạo và sức lao động phi thường. Chẳng phải ngẫu nhiên mà cho đến ngày nay, ai cũng phải thừa nhận, ông là một trong những nhân vật vĩ đại nhất thời Phục hưng. "Một người khổng lồ"!

Chính ông, bằng tài năng và nhân cách của mình, cùng với những người như Leonardo da Vinci, Raphael đã “buộc” nhân loại phải có một cách nhìn khác, một cách nghĩ khác về vai trò và vị thế của người họa sĩ và điêu khắc trong xã hội - cho tới ngày nay. Trước đó, trong mắt mọi người, cho dù đầy vẻ quyến rũ và đặc biệt, họa sĩ và điêu khắc cuối cùng, cũng chỉ là những “người thợ”, những kẻ “lao động chân tay-thấp kém”!

Có nhìn trên nền bối cảnh này, mới thấy tầm ảnh hưởng của ông lên thời đại lớn lao như thế nào. Ngay khi ông còn sống, tầm vóc vĩ đại của ông đã được công nhận. Ông có lẽ là người duy nhất đương thời có tiểu sử được xuất bản khi đang còn sống. Giorgio Vasari, người đã viết về ông, trong sách của mình, đã cho rằng ông là động cơ của mọi thành tựu nghệ thuật từ khi bắt đầu thời kỳ Phục hưng, một quan điểm vẫn tiếp tục được ủng hộ trong lịch sử nghệ thuật trong nhiều thế kỷ...

Dưới đây là đôi nét chính trong sự nghiệp nghệ thuật của Michelangelo.

Michelangelo, tên đầy đủ Michelangelo di Lodovico Buonarroti Simoni, sinh ngày 6 tháng 3 năm 1475 tại Caprese gần Arezzo, Tuscany. Lúc mới mười ba tuổi, Michelangelo được nhận vào học việc tại xưởng của hoạ sĩ Domenico Ghirlandaio, và ông đã tỏ ra là một "nghệ nhân" xuất sắc. Chỉ một năm sau, tức khi chỉ mới 14 tuổi, Domenico Ghirlandaio đã phải trả tiền công cho ông như phải trả cho một "nghệ sĩ thực thụ". Đó là điều vô cùng hiếm có ở thời kỳ đó. Từ năm 1489, được sự bảo trợ của Lorenzo de' Medici, nhà cai trị trên thực tế của Florence, Michelangelo theo học điêu khắc với Bertoldo di Giovanni, một điêu khắc gia có ảnh hưởng lớn lúc bấy giờ. Tại học viện của Bertoldo di Giovanni, Michelangelo tiếp thu ảnh hưởng lớn cả về quan điểm lẫn nghệ thuật của các nhà triết học và tác gia "Tân Platon" nổi tiếng nhất thời ấy như Marsilio Ficino, Pico della Mirandola và Angelo Poliziano... Trong thời gian này, ông đã thực hiện các bức phù điêu nổi thấp Madonna of the Stairs (1490–1492) và Battle of the Centaurs (1491–1492)

Michelangelo tới Rome ngày 25 tháng 6 năm 1496, ở tuổi 21. Tháng 11 năm 1497, Hồng y Jean de Billheres - một đại diện người Pháp tại Rôma - đặt ông thực hiện tác phẩm Pietà. Và đây, là tác phẩm nổi tiếng nhất của ông. Thời ấy, người ta đã nói về tác phẩm này: "một sự phát lộ mọi tiềm năng và xung lực của nghệ thuật điêu khắc". Còn theo Vasari: "Chắn chắn đó là một điều thần diệu mà một khối đá có thể được tạc thành một sự hoàn hảo mà thiên nhiên không thể tạo ra trong đó."



Michelangelo quay trở lại Florence năm 1499. Ông được yêu cầu hoàn thành dự án còn dang dở đã được bắt đầu từ 40 năm trước đó bởi Agostino di Duccio: một bức tượng khổng lồ thể hiện David như một biểu tượng của sự tự do của Florentine. Michelangelo đáp ứng bằng cách hoàn thành tác phẩm nổi tiếng nhất của mình, tượng David (năm 1504). Kiệt tác này, đã minh chứng cho sự xuất chúng của ông với tư cách là một nhà điêu khắc có tài năng kỹ thuật phi thường và sức mạnh của khả năng sáng tạo biểu tượng.



Năm 1505 Michelangelo được Giáo hoàng Julius II mới được bầu mời quay trở lại Rome. Ông được yêu cầu xây dựng hầm mộ cho Giáo hoàng. Dưới sự bảo trợ của Giáo hoàng, Michelangelo phải liên tục dừng công việc ở hầm mộ để hoàn thành nhiều nhiệm vụ khác. Bởi những sự ngắt quãng này, Michelangelo đã mất 40 năm cho hầm mộ. Hầm mộ, với trung tâm là tượng Moses của Michelangelo, không bao giờ được hoàn thành ở mức khiến ông hài lòng, nhưng nó đã vẫn đi vào lịch sử như một tác phẩm bất hủ...

Cũng trong giai đoạn này, Michelangelo nhận yêu cầu vẽ trần Nhà nguyện Sistine, và ông đã mất gần bốn năm để hoàn thành (1508–1512).



Năm 1513 Giáo hoàng Julius II qua đời và người kế tục ông Giáo hoàng Leo X, một thành viên gia đình Medici, đặt hàng Michelangelo xây dựng lại mặt tiền của La Mã pháp đình San Lorenzo tại Florence và trang trí nó bằng những tác phẩm điêu khắc. Michelangelo đã mất gần 3 năm chuẩn bị các phác thảo và tổ chức việc khai thác đá phục vụ công trình, nhưng công việc bất thần bị hủy bỏ do sự thiếu hụt tài chính của những người bảo trợ.

Trong những năm từ 1520 đến 1530, Michelangelo dành hết thời gian thực hiện nhà nguyện trong nghĩa trang của gia đình Medici tại La Mã pháp đình San Lorenzo. Công trình này đã được xem là ví dụ tốt nhất về sự tích hợp tầm nhìn về điêu khắc và kiến trúc của người nghệ sĩ...

Từ năm 1534 tới tháng 10 năm 1541, theo yêu cầu của Giáo hoàng Clement VII, Michelangelo thực hiện bích hoạ "Sự phán xét cuối cùng" trên tường Cung Thánh Nhà nguyện Sistine. Mặc dầu Giáo hoàng Clement VII đã chết ngay sau khi giao việc, nhưng Giáo hoàng kế nhiệm Paul III đã để cho Michelangelo tiếp tục và hoàn thành tác phẩm. Đây là tác phẩm vô cùng xuất sắc, nhưng đương thời, đã gây ra những cuộc tranh cãi gay gắt. Chủ yếu là do Michelangelo đã "khỏa thân" tất cả. Lúc ấy, mọi người cho rằng nó "tục tĩu và báng bổ". Hồng y giáo chủ Carafa và Monsignor Sernini (Thư ký của Giáo hoàng) đã kêu gọi kiểm duyệt và xoá bỏ bức tranh, nhưng Giáo hoàng phản đối. Sau khi Michelangelo chết, mọi người quyết định che đi các bộ phận sinh dục, và Daniele da Volterra, một học trò của Michelangelo, được trao trách nhiệm làm việc này... (Một bản copy trung thành với bản gốc của Michelangelo, do Marcello Venusti thực hiện, hiện được lưu trữ tại Bảo tàng Capodimonte ở Naples).

Sự kiện "Sự phán xét cuối cùng" xoay quanh những hình ảnh khỏa thân là đỉnh cao của các tranh luận đương thời, mà cho đến ngày nay, vẫn còn vô số giai thoại được lưu truyền. Trong đó, được biết đến nhiều nhất, là câu nói của Michelangelo trả lời những ai kết án mình: “Thiên Chúa đã sinh ra con người trong hình hài đẹp đẽ giống Người. Chỉ có những kẻ thiếu đức tin với tâm hồn gian trá mới xấu hổ vì sự lõa lồ”!

Trước đó, hình ảnh Chúa Giê su cởi truồng khi vẫn còn là một đứa trẻ trong tác phẩm “Madonna of Bruges”, hiện đang đặt tại nhà thờ Thánh Mẫu ở Bruges, Bỉ, cũng là đề tài gây tranh cãi và đã bị che phủ đi trong nhiều thập kỷ.

Năm 1546, Michelangelo được chỉ định làm kiến trúc sư Vương cung Thánh đường Thánh Phêrô tại Vatican. Đây là công trình kiến trúc quan trọng nhất của ông, và cũng là công trình kiến trúc quan trọng nhất đối với Giáo hội Công giáo. Ông đã thiết kế mái vòm nổi tiếng của nó. Tiếc là ông đã mất trước khi công trình được hoàn thành. Dưới đây là hình ảnh Vương cung Thánh đường Thánh Phêrô với mái vòm độc đáo của Michelangelo:


Như đã nói, trên đây chỉ là điểm qua đôi nét chính trong sự nghiệp nghệ thuật của Michelangelo. Còn có nhiều chuyện để nói, và còn có vô số vấn đề quanh Michelangelo đáng để tìm hiểu,lý giải...

Chắc chắn chúng ta sẽ còn phải quay lại với Michelangelo, nếu còn tiếp tục nói về nghệ thuật Công giáo.


Tài liệu tham khảo chính:

1. The Story of Art của E.H. Gombrich
2. Câu chuyện nghệ thuật hội hoạ của Sister Wendy Beckett

(Bài đã in trong sách "Nghệ thuật Công giáo"-tập 1, xuất bản năm 2011)


Tin, bài liên quan:











* Giuse Mai Đức Tây (Gx.Ghềnh Ráng)

Ông Phêrô ơi!
Mấy ngày qua trời mưa gió mịt mù
Quê hương con khắp nơi ngập tràn nước
Bao nhiêu người vội vã bỏ đi trước
Để người thân với lạnh lẽo xác xơ

Ông Phêrô ơi!
Cửa thiên đàng ông đã mở hay chưa?
Ông có thấy cảnh bi thương mất mát
Xin đưa họ vào phúc vinh an lạc
Để muôn muôn đời chiêm ngưỡng thánh nhan

Ông Phêrô ơi!
Xin ban xuống cho chúng con bình an
Đỡ nâng dắt dìu qua cơn lũ lớn
Trẻ em lại được đến trường đến lớp
Tìm lại con chữ đánh mất bao ngày

Ông Phêrô ơi!
Mùa Giáng Sinh đã cận kề rồi đây
"Cao Cung Lên" muôn khúc ca kính chúc
"Đêm Thánh Vô Cùng", đêm đầy ơn phúc
Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời

Ông Phêrô ơi!
Kiếp con người lắm gian khổ chơi vơi
Trí tâm yếu mềm, chùn chân mỏi gối
Biết làm sao vượt thoát khỏi đêm tối
Nếu không có Người yêu mến chở che

Ông Phêrô ơi!
Một đợt lũ nữa chuẩn bị tràn về...
Lời con cầu, ông hãy nghe, ông nhé...



NÓI VỚI EM BÉ ẤY…



em bé ấy ơi, em trao tay người
năm chiếc bánh và hai con cá
chỉ là phần thức ăn lót dạ
có đáng gì cho cả năm ngàn dân

sao em không cất giấu để phòng thân
lại trao đi mà chẳng cần tính toán
là em nhỏ mà lòng không nhỏ mọn
hay em là bóng dáng của thiện chân

em có biết, bao người lớn sượng sần
bởi kẻ phù phàm, không ai làm thế
em bé nhỏ, mà sao em có thể
có phải vì chẳng nhỏ bé tình thương

khi cùng nhau lâm lụy cảnh đoạn trường
mới thấu hiểu nghĩa sẻ nhường, chia nhịn
em bé ơi tỏ bày bao lẽ kín
của nỗi lòng Đấng Hiền Hậu, Khiêm Nhu

em là hiện thân của em bé Giê-su
nhường sự sống cho muôn người được sống

ả giang hồ, 22-7-2015