KÍ ỨC 



(Mã số: 18-154)

- Tý ơi ra đây mẹ bảo! Hôm nay bố mẹ đi làm mày ở nhà trông em nhé! Xong ra kia chặt mấy đon củi, nấu cơm, mẹ về mà chưa làm xong việc, để em khóc thì mày cứ chuẩn bị nhịn cơm đi… Mẹ nói thì mẹ sẽ làm. 

- Vâng con biết rồi ạ! Bố mẹ đi cẩn thận. 

Vì có bố tôi ở đó nên bà ta mới xưng bằng mẹ, còn nếu không làm gì có chuyện lịch sự thế này. Lúc sinh tôi, mẹ tôi đã mất rồi, khoảng ba-bốn năm sau bố tôi lấy bà ta, sinh được một đứa con trai. Bà ta cưng con mình lắm lúc nào cũng chiều nó hết mực. Còn tôi... nếu so sánh kĩ ra thì tôi không bằng một con cún bà ta đã mua mấy tháng trước. Bố tôi đi làm suốt và bị che mắt bởi những lời nói ngọt ngào của bà ta nên kệ cho bà ta mắng chửi. 

Từ ngày bà ta về đây, ngày nào tôi cũng phải chịu sự áp bức của bà, đôi lúc chỉ vì tôi để thằng con bà khóc mà bà không cho tôi ăn cơm, có lần tôi đã ngất vì đói. 

- Chị ơi em ra bờ ao chơi chút nhé! 

- Không, nhỡ ngã xuống đó thì sao? Chị không cứu em lên được đâu. 

- Chị yên tâm đi, chị chẻ củi ở bên cạnh làm sao em ngã được. 

Tôi vẫn lo lắng, nhưng thôi, đằng nào cũng chẻ củi ở gần đó, chắc không sao... 

- Ừ, nhớ cẩn thận nhé, đừng đi lung tung kẻo ma bắt đấy. 

Tôi dọa nó vậy, nói xong nó vâng dạ, ra bờ ao chơi. Trung năm nay mới được bốn tuổi, được cái ngoan, dễ bảo, không giống tính mẹ nó chút nào. 

Tôi vừa kiếm củi vừa hát những bài thánh ca về Chúa. 

- Chị ơi chị hát tiếp đi, em thích nghe chị hát lắm! 

Sắp đến tháng hoa rồi, tháng mừng kính Đức Mẹ, tôi muốn tham gia đội hoa của giáo họ nhưng không dám xin vì tôi biết thể nào bà dì kia cũng cấm cản. 

Mười lăm phút sau... 

- Trung ơi! Về thôi, chị kiếm củi xong rồi nè… Trung ơi! 

Tôi chợt dựng tóc gáy, trời ơi! Trung đâu rồi, tôi mải kiếm củi mà quên mất Trung. Tôi vội vàng để củi xuống đất, đi tìm. Tôi tìm quanh bờ ao, chỗ tôi kiếm củi cũng không thấy, chỉ thấy mỗi đôi dép nổi trên mặt nước. Tôi bắt đầu tự an ủi mình: “Không phải... không phải đâu... chắc chắn không phải nó đã ngã xuống ao”… Nhưng chiếc dép ở giữa ao là thế nào? Tôi oà khóc, chạy về nhà xem nó có về trước không? 

- Trung ơi! Em đang ở đâu? Em đừng trốn chị nữa, ra đây đi! Đừng làm chị sợ. 

Cảm giác tuyệt vọng đang bao trùm, sự hối hận dâng trào trong tôi. Nếu lúc đó tôi gọi Trung ra chơi cùng... Nếu lúc đó tôi ngoảnh lại xem nó đang làm gì dù chỉ là một chút thì chắc đã không có chuyện này. Tôi đã tìm nó từ nãy đến bây giờ và có thể nó đã rơi xuống ao thật. Nếu như để bố và bà ta biết thì tôi phải làm sao đây? Không... không thể chờ họ về được, nếu như để bà ta biết, thì bà ta sẽ giết tôi mất. “Chúa ơi con phải làm gì bây giờ?”… Đúng rồi, mình phải đi trốn thôi, mình sẽ rời khỏi nơi này, đi thật xa, đến nơi mà họ không tìm thấy. Tôi gấp gọn quần áo rồi lấy số tiền bố tôi để ở nhà, tất cả là mười triệu, tôi mang đi tám triệu và tự nhủ với mình, đến nơi sẽ đi kiếm việc làm. Tôi bắt đầu ra khỏi nhà, bắt một chiếc xe buýt ra Hà Nội. Ngồi trên xe tôi không ngừng khóc, bàn tay run run lần chuỗi hạt Mân Côi, miệng đọc kinh Kính Mừng liên lỉ, tôi chỉ mong chiếc xe có thể chạy thật nhanh. 

Ngồi qua mấy trạm xe buýt, tôi bắt một chiếc xe taxi nữa chạy ra ngoại thành Hà Nội, không may sau đó… 

“Kít... rầm...” 

- Cháu gì ơi tỉnh lại đi!... Anh ơi mau gọi xe cấp cứu!- Một người phụ nữ gọi tôi. 

Tám giờ tối... 

Tôi... tôi đang ở đâu thế này! Chuyện gì đã xảy ra với tôi vậy? 

- Cháu tỉnh rồi à? Bố mẹ cháu đâu mà để cháu đi một mình? Có nhớ số điện thoại của bố mẹ không để chú gọi bảo bố mẹ đến đón?- Một người đàn ông đứng bên cạnh hỏi tôi. 

- Cháu đang ở đâu vậy ạ? Cháu là ai?... Á... cháu đau đầu quá! 

- Cháu đừng động vào, để chú đi gọi bác sĩ… Em ở đây trông cháu nhé, anh quay lại liền. 

Tôi không nhớ mình là ai? Tại sao lại ở nơi này? Bố mẹ tôi là ai? Hai người vừa rồi là thế nào? Đầu tôi như muốn nổ tung, người phụ nữ tiến lại gần ngồi cạnh tôi và nói: 

- Cháu không nhớ mình là ai sao? Bình tĩnh nhớ kĩ lại xem nào. Sáng hôm nay vợ chồng cô chú từ quê về nhà thấy có tai nạn, cô chú đến thì chiếc xe gây án đã bỏ chạy, còn xe taxi cháu ngồi thì cả hai đều bị thương nặng, chú lái xe đang nằm ở phòng bên cạnh… 

Cô ấy còn đang nói thì chú lúc nãy quay lại: 

- Bác sĩ tới rồi! 

Bác sĩ xem lại vết thương, bảo cô y tá chuyển tôi tới phòng chụp chiếu để khám lại. Một tiếng sau, tôi được đưa về phòng, thấy trong người rất mệt nên tôi đã ngủ thiếp đi, chỉ nghe thấy bác sĩ nói với vợ chồng kia: Tôi bị sốc về mặt tinh thần cộng thêm vụ tai nạn nên tôi bị mất trí nhớ, và có thể… mất trí nhớ mãi mãi. Tôi không hiểu vì sao đôi vợ chồng kia lại lo lắng cho tôi như vậy? Trong lúc tôi ngủ họ còn cầu nguyện cho tôi nữa. Sáng hôm sau, tôi thấy mình nằm trong vòng tay ấm áp của người phụ nữ xa lạ, tôi không cảm thấy khó chịu mà ngược lại tôi cảm nhận được tình thương của bà. 

- Cháu dậy rồi à? Dậy súc miệng đi, chú có mua cơm sáng cho cháu đấy. 

Tôi không muốn làm người phụ nữ đáng tuổi mẹ tôi nằm bên cạnh tỉnh giấc, tôi nhích dần lên và ngồi dựa vào thành giường. 

- Chú ơi, chú biết cháu ạ? 

Tôi thấy sự bối rối hiện rõ trên khuôn mặt chú. 

- Xin lỗi cháu, chú không biết cháu là ai cả. 

- Vậy tại sao cô chú lại quan tâm, đối xử tốt với cháu như vậy? 

- Vì cháu… rất giống một người mà cô chú quen biết.- Người phụ nữ bên cạnh tỉnh giấc nói nhỏ. 

- Cháu giống ai ạ? 

Ngồi dậy, người phụ nữ lấy một bức ảnh trong túi áo khoác của mình rồi đưa cho tôi. 

- Đây là con gái của cô chú. 

Tôi dường như không thể tin nổi vào mắt mình, người trong ảnh và tôi giống nhau như hai giọt nước. 

- Đây là con gái của chú, nó đã chết trong một vụ tai nạn xe cách đây ba tháng trước. Nó là một cô gái ngoan hiền, chăm chỉ, nó còn nuôi ước mơ về sau sẽ trở thành một nữ tu đấy, vậy mà… 

Chú nghẹn ngào lấy tay lau nước mắt. 

- Thật ra cô chú không có con, cô nhận nuôi con bé trong một trại mồ côi tính đến nay cũng khoảng mười ba năm rồi, hình như nó cũng bằng tuổi cháu. Hôm cô chú gặp cháu cũng là hôm cô chú đi thăm mộ nó ở dưới quê về. 

- Bây giờ cháu đã nhớ lại được gì chưa?- Người đàn ông hỏi. 

- Dạ chưa ạ, mỗi lần nghĩ là đầu cháu lại đau. Cháu không biết bây giờ cháu phải làm gì? 

- À… Hôm cháu bị tai nạn chú thấy bên cạnh cháu có một chiếc túi đựng quần áo và bảy triệu đồng, cháu lấy đâu ra nhiều tiền vậy? 

Tôi ngạc nhiên… Mình lấy đâu ra nhiều tiền như thế? 

- Cháu không biết… nhưng cháu nghĩ không phải do cháu ăn trộm. Trong đầu cháu trống rỗng chẳng còn nhớ chuyện gì. 

- Thế lúc cháu khỏe lại cháu định đi đâu? 

- Cháu…cháu…- Tôi bắt đầu khóc. 

Người phụ nữ không biết đã rơi lệ từ bao giờ. 

- Hay là bây giờ cháu về nhà cô chú ở tạm, lúc nào cháu nhớ lại cô chú sẽ đưa cháu về. Cô chú sẽ coi cháu như là con ruột, sẽ cho cháu ăn học và sẽ giúp cháu tìm lại gia đình. 

Tôi suy nghĩ một lúc rồi gật đầu đồng ý theo cô chú về nhà. Hai ngày sau tôi xuất viện… 

* * * 

- Ngọc ơi! Về thôi con. 

- Dạ con ra liền! 

Ngọc là cái tên cô chú đặt cho tôi, từ nay tôi sẽ coi cô chú như cha mẹ ruột của mình, những người đã cứu tôi thoát chết trong vụ tai nạn. 

- Đây là phòng của con nhé, mẹ sẽ nhờ người dọn dẹp. 

- Con cảm ơn mẹ. 

Về đến nhà cô chú, tôi không nghĩ là căn nhà lại lớn đến thế. Tổng thể ngôi nhà được trang trí rất đẹp, không gây rối mắt. Tôi nhận được sự quan tâm của tất cả mọi người trong gia đình làm tôi cứ ngỡ đây là nhà mình thực sự. Cô chú làm các thủ tục pháp lí và cho tôi đi học. Ngày đầu tiên về nhà mới, tôi nghe có một âm thanh quen thuộc mà tôi nghĩ nó liên quan đến kí ức của mình, đó là tiếng chuông nhà thờ. 

Tôi xin phép mẹ đi lễ tối, mẹ đồng ý ngay vì bố mẹ cũng là người Công giáo và hôm nay là tối thứ bảy: Lễ của giới trẻ. Đến nhà thờ, không còn nghi ngờ gì nữa, tôi khẳng định mình là người Công giáo. Tôi biết làm dấu, thuộc các kinh ngày thường, những bài hát phục vụ tôi đều thấy quen thuộc. Trong đầu tôi hiện lên một số hình ảnh lạ, hình ảnh tôi dạy hát ở nhà thờ, hình ảnh tôi sinh hoạt giới trẻ… 

- A… Đầu con đau quá mẹ ơi! 

- Có phải con nhớ ra được điều gì đó rồi phải không? 

- Mẹ ơi con cũng là người Công giáo, con biết các kinh tối sáng ngày thường; sinh hoạt, phục vụ cho thiếu nhi và giới trẻ nhưng… không phải ở nhà thờ này. 

Mẹ tôi giật mình hình như nhớ ra điều gì đó. 

- Ngọc à, mẹ quên không đưa cho con cái này, lúc con bị tai nan con cứ cầm nó suốt. 

Tôi nhận lấy món đồ từ mẹ, và đó là chuỗi hạt Mân Côi. Trong đầu lại hiện ra những hình ảnh mờ mờ ảo ảo: Ngồi dưới chân hang đá đọc kinh Mân Côi kính Đức mẹ, hình ảnh tôi ngồi khóc lần hạt trên xe buýt. Tôi lại thấy đau đầu, cơm đau đầu khiến tôi không nghĩ được gì nữa. 

- Chắc con hay lần hạt, đọc kinh Mân Côi kính ĐứcMẹ lắm nhỉ? Khi nào con học xong cấp ba mẹ sẽ cho con tham gia vào ban chia sẻ Tin Mừng, để con được đi nhiều nơi, mang Chúa đến cho nhiều người, và có khi còn tìm thấy bố mẹ ruột của mình nữa. 

- Mẹ đừng suy nghĩ nhiều nữa, dù con có tìm thấy cha mẹ ruột hay không thì con vẫn mãi là con của bố mẹ, con cảm ơn mẹ vì đã cứu con vào buổi sáng hôm ấy. 

Hai mẹ con dự lễ xong, tôi xin ở lại sinh hoạt giới trẻ đến chín rưỡi tối mới về. Buổi đầu tiên tôi làm quen với mọi người, ai cũng thân thiện, dễ mến. Vậy là từ đó về sau tối thứ bảy hàng tuần tôi đều dự lễ và ở lại sinh hoạt. 

***

Năm năm sau… 

- Mẹ ơi, mai con phải đi với các anh chị giới trẻ xuống một giáo xứ cách đây rất xa để làm chương trình từ thiện, ba ngày sau con mới về, mẹ cho con đi nhé! 

- Ừ, để mẹ bảo người sắp xếp đồ đạc cho con. 

- Mà làm chương trình đó là bác ái tặng gạo cho các gia đình có hoàn cảnh khó khăn à con?- Bố hỏi. 

- Dạ vâng, ngoài ra mình có thể tặng sách vở và quần áo cho các em nhỏ ở đó nữa ạ. 

- Ừ, con đi cẩn thận nhé! Chúa luôn phù hộ cho con. 

- Con cám ơn bố! 

Đã năm năm trôi qua, tôi cũng đã trưởng thành, một cô gái hai mươi tuổi bước vào đời với nhiều kinh nghiệm sống. Làm công tác từ thiện không phải lần đầu tiên, tôi đã đi rất nhiều nơi, quen biết nhiều người và nhờ ơn Chúa tôi có thể hoàn thành tốt công việc mọi người giao phó. Chuyến đi này là lần thứ mười lăm, tôi nghe nói ở đây có nhiều giáo dân nghèo lắm, có khi các em nhỏ phải nghỉ học ở nhà để giúp gia đình. 

- Ngọc ơi, chuyển đồ xuống thôi. 

- Vâng ạ! 

Trời! Cảm giác gì thế này?... Tôi có cảm giác thân quen khi vừa đặt chân đến nơi này, cảm giác hoàn toàn khác với các lần đi trước. Mới đầu khi nhắc đến tên giáo xứ tôi đã cảm thấy rất quen, tôi xin phép anh chị cho tôi đi dạo quanh nhà thờ một chút; ngôi nhà thờ mà tôi hay mơ thấy hằng đêm đó chính là ngôi thánh đường này. 

- Xuân! Là con phải không?- Cha chính gọi tôi- Con đi đâu suốt năm năm trời, ở nhà bố mẹ con và cộng đoàn giáo xứ tìm con khắp nơi. 

Tôi không hiểu lời cha nói. 

- Cha… cha biết con ạ? Chắc cha nhận nhầm người rồi. Con là Ngọc đi cùng các anh chị giới trẻ Hà Nội đi đến đây từ thiện mà. 

- Không… không thể sai được! Con nói con là giới trẻ Hà Nội vậy sao con có chuỗi hạt Mân Côi đó. Chuỗi hạt Mân Côi này chỉ có cha mới có, năm năm trước chính cha đã tặng con nhân dịp con thi đỗ “nhân tài mùa Chay” mà. 

Đầu tôi lại đau, tôi xin phép cha rồi chạy thật nhanh đến nơi phát gạo. Ai nhìn thấy tôi cũng ngạc nhiên rồi hỏi: 

- Cháu à! Cháu là Xuân con bác Thành phải không? 

- Đúng rồi! Cháu đi đâu mà giờ này mới về vậy? Ai cũng lo cho cháu lắm. 

- Xuân ơi, cháu về nhà đi, bố cháu vì đau buồn quá nên ngã bệnh rồi. 

Họ hỏi tôi dồn dập, đầu tôi càng đau hơn. 

- Cháu… cháu không biết mọi người đang nói gì. Chắc mọi người nhận nhầm người rồi, cháu là Ngọc thành viên trong ban giới trẻ Hà Nội, không phải là Xuân đâu. 

- Chị Xuân, đúng là chị rồi! Em Trung đây… Em trai của chị đây mà. 

Thấy một đứa trẻ học lớp năm, tiến tới ôm tôi, khóc nức nở còn nói những lời này, theo phản xạ tôi vội đẩy nó ra. 

- Em là ai vậy? Chị đâu có biết em… Á, đầu tôi đau quá! 

Tôi đứng không vững định quay lại chạy thật nhanh nhưng vừa quay lại thì không may đụng trúng cái cột, tôi ngất đi. Trong cơn mê man, tôi thấy các hình ảnh hiện ra một cách rõ ràng theo trình tự. Tôi thấy mình sống trong một ngôi nhà cấp bốn, có một người phụ nữ luôn quát mắng, đánh đập tôi, nhớ mấy lần tôi ngất đi vì đói… Tất cả đều đã ùa về, tôi hoàn toàn nhớ lại. Lúc tỉnh dậy tôi vô thức la lên một tiếng “Không”, mọi người xung quanh đều giật mình, đến gần hỏi thăm. Ở đây gồm có cha chính, các anh chị giới trẻ, Trung và một người đàn ông ngoài năm mươi tuổi vừa tới. 

- Xuân ơi, là bố đây, con không nhận ra bố sao? Bố biết là con giận bố nhưng đã năm năm rồi mà, chẳng nhẽ con không thể tha lỗi cho bố được à? Từ lúc con đi, hôm nào bố cũng đi tìm con nhưng vì gia đình mình nghèo không để đi hết các nơi tìm con được nên bố đã nhờ bà con ai biết thì báo về. 

Tôi hiểu tất cả những gì ông nói, tôi với ông đều rươm rướm nước mắt. 

- Bố ơi con nhớ lại, con đã nhớ lại hết rồi… Bố ơi! 

Tôi vừa nói vừa chạy ra ôm bố. Đã năm năm rồi, năm năm thiếu vắng đôi bàn tay chai sạn, năm năm thiếu bóng dáng của một người đàn ông cần cù, hiền đức… Mọi người thấy cảnh tượng trước mắt đều xúc động. Đợi tôi bình tĩnh lại ông mới hỏi: 

- Trong suốt thời gian qua, con đã sống thế nào? 

Tôi kể đầu đuôi sự việc cho ông nghe, tôi đã bỏ trốn, mất trí nhớ và đang có một gia đình hạnh phúc như thế nào. Ông nghe tôi nói gật đầu: 

- Vậy là tốt rồi, bố xin lỗi vì đã để con phải chịu khổ. Từ hôm con đi ngày nào bà ta cũng chửi bới, đi ngoại tình. Bố quyết định ly hôn, nhận quyền nuôi Trung và đi tìm con. Mong con tha lỗi cho bố. 

- Không sao ạ, mọi chuyện đều đã qua hết rồi. Con cũng xin lỗi bố vì đã tự ý lấy trộm tiền và ra khỏi nhà. Con hỏi bố vấn đề này có được không? Có phải lúc sinh con, con còn một chị gái sinh đôi nữa không? 

Tôi thấy bố giật mình, cúi đầu nói: 

- Đúng vậy, sao con lại biết? Lúc đó mẹ con sinh khó nên mẹ con dặn là nuôi con còn gửi chị con vào cô nhi viện. 

- Bố ơi con biết mộ chị con ở đâu đấy. 

Bố tôi bật khóc. 

- Chị con đã chết rồi sao? Lỗi là do bố nếu ngày đó bố cố gắng làm việc thì gia đình mình sẽ không gặp khó khăn để bây giờ phải gặp tình huống trớ trêu như thế này. 

Sau đó bố con tôi đã ngồi tâm sự với nhau suốt đêm , đến bây giờ tôi mới biết hóa ra lúc đó Trung đi tìm bố và cùng bố trở về nhà. Bàn bạc xong, bố với tôi đã quyết định đi thăm mộ chị và liên lạc với bố mẹ đang ở Hà Nội. 

Bố mẹ nuôi nói vẫn sẽ coi tôi như con ruột mà cho ăn học, còn nói sẽ hỗ trợ Trung học hành, tôi không biết lấy gì để đáp đền ân tình đó. Tôi phải cảm tạ Chúa và Đức Mẹ vì đã luôn ở bên tôi lúc tôi gặp khó khăn, cho tôi biết được sự có mặt của chị gái trên đời này và nhất là gặp được bố mẹ nuôi, người đã cưu mang tôi và chị gái…

TRƯỜNG CÔNG GIÁO DẠY HỌC SINH TỰ CHỦ TỐT HƠN


#GNsP- Viện nghiên cứu Thomas B. Fordham gần đây phát hiện ra rằng học sinh tiểu học của các trường Công giáo, bất kể chủng tộc, giới tính hay tình trạng kinh tế xã hội đều có khả năng tự chủ và tự giác cao hơn các trẻ học tại các trường công lập hoặc tư thục ngoài Công giáo. 

Nghiên cứu đã thực hiện hai cuộc khảo sát về hành vi của hàng ngàn học sinh tiểu học thuộc các trường công lập, Công giáo và tư thục. 

Theo các giáo viên tham gia khảo sát, học sinh thuộc các trường Công giáo ít có “các hành vi bộc phát” hơn, nghĩa là họ không cãi vã, giận dữ, bốc đồng hoặc gây rối thường xuyên như học sinh của các trường khác.
Ngoài ra, những học sinh Công giáo còn “kiểm soát tính khí mình tốt hơn, tôn trọng tài sản của người khác, đón nhận ý kiến của bạn học và có khả năng chịu được áp lực lớn”. Đường nhân khẩu học đã cho thấy điều này là đúng. 

Trên trang web của mình, Viện Fordham khuyến khích phương pháp học tập toàn diện dành cho mỗi trẻ em tại Hoa Kỳ thông qua nghiên cứu, phân tích và đánh giá đáng tin cậy. Người ta thường xem nơi đây là viện chính sách chiến lược. 

Khi người ta ủng hộ nghiên cứu này thì chuyên gia Viện CATO, ông Corey A. DeAngelis cảnh báo rằng đây có thể không phải quan hệ nhân quả (vì thực sự không có phương pháp nào có thể tạo ra được một nhóm có khả năng kiểm soát), vì còn có nhiều yếu tố khác góp phần hình thành nên thái độ tốt của một đứa trẻ hơn là kiểu trường lớp mà các em theo học. 

Tuy nhiên, ông DeAngelis cho rằng có nhiều nguyên nhân để người ta cho rằng các trường Công giáo đặc biệt có thể tạo ra một môi trường phát triển ý thức tự chủ của học sinh. “Các trường tôn giáo có được lợi thế cạnh tranh trong việc định hình nhân cách vì các em học sinh không chỉ có trách nhiệm trước giáo viên, mà trước Thiên Chúa nữa”. 

Chuyên gia DeAngelis cũng suy đoán rằng bản chất thân thiện của nhiều trường Công giáo sẽ tạo thuận lợi cho môi trường học tập đem lại lợi ích cho học sinh. 

“Dường như các em bị thu hút và quan tâm đến một ngôi trường có văn hóa học tập mạnh mẽ”. 

Một hệ thống trường có nền văn hóa mạnh mẽ như vậy là trường Cristo Rey. Hệ thống này đặc biệt phục vụ các trẻ em nghèo, và đại đa số các em là người da màu. 

Chương trình Cùng nhau Học tập và Làm việc của họ đã giúp học sinh làm việc trong môi trường văn phòng để trang trải học phí. Một học sinh trung bình của Cristo Rey thường học chậm hơn các bạn trường khác hai lớp nhưng bù lại, khoảng 90% các em sau khi tốt nghiệp sẽ học đại học. 

Giám đốc điều hành hệ thống Cristo Rey, cô Elizabeth Goettl thừa nhận các tiêu chuẩn cao được các nhà giáo Công giáo đặt ra nhằm đạt được kết quả này. 

“Học sinh trường Công giáo thường biểu hiện tự chủ và tự giác tốt hơn các bạn khác vì tất cả mọi người đều rất mong đợi ở các em những thái độ đó”. Các thầy cô và học sinh lớn hơn đều làm gương cho các em, đó là điều cô Goettl cho là đã có ảnh hưởng ăn sâu đến các học sinh khác. 

Tiến sỹ Dale McDonald, giám đốc ban chính sách công và nghiên cứu giáo dục thuộc Hiệp hội Giáo dục Công giáo Hoa Kỳ cho trang CNA biết bà ủng hộ những chương trình này vì “một đứa trẻ không nên chịu thiệt thòi vì cha mẹ chúng không có khả năng chi trả”. 

Chuyên gia DeAngelis cũng có chung suy nghĩ đó. Ông nói rằng, “Chúng ta đã cho phép những gia đình khá giả cho con đi học tại các trường tôn giáo. Chúng ta không được ngăn cấm những người nghèo cho con họ học tại các trường này chỉ vì họ không có các phương tiện tài chính. Các gia đình nghèo cần được tự do thực hành các tôn giáo của họ ngay cả khi họ cần có tài chính để làm như thế”.


GIẢI VIẾT VĂN ĐƯỜNG TRƯỜNG 2018
BẢN TIN 10 



Thưa quý độc giả và quý tác giả, 

Một tuần trước khi phát hành bản tin này, Ban Tổ chức Giải Viết Văn Đường Trường lần VI đã tổng kết điểm của 107 bài được vào vòng sơ khảo (trong số 167 bài dự thi). Trong số này, đã chọn ra 64 bài đạt điểm cao để giới thiệu vào vòng chung khảo. Ban Chung khảo bắt đầu vất vả với hơn 430 trang bài. 

Các bài được chọn thuộc về 37 tác giả sau đây (xếp theo thứ tự ABC): 

Agata Nguyễn Thị Kim Tuyến, 

Anna Hoàng Thị Huyền, 

Anna Huỳnh Thị Ngọc Trân, 

Anna Nguyễn Bích Hạt, 

Anna Nguyễn Thị Lành, 

Antôn Trần Văn Dũng, 

Gioakim Nguyễn Quốc Nam, 

Gioakim Nguyễn Vũ Hồng Kha, 

Gioakim Trần Văn Trung, 

Gioan Nguyễn Đức Tín, 

Giuse Cao Viết Tuấn, 

Giuse Dư Văn Từ, 

Giuse Lê Ngọc Thành Vinh, 

Giuse Lê Văn Quân, 

Mađalêna Đặng Hoàng Hương Giang, 

Maria Bùi Thị Hải Giang, 

Maria Đặng Kim Thoa, 

Maria Dương Thị Quỳnh, 

Maria Lê Thị Lan Vân, 

Maria Nguyễn Thị Bá Ninh, 

Maria Nguyễn Thị Khánh Liên, 

Maria Nguyễn Thị Mai Hương, 

Maria Nguyễn Thị Thu Thảo, 

Maria Nguyễn Thị Trúc Lư, 

Maria Phạm Thị Yến, 

Maria Trần Thị Hằng Nga, 

Matta Võ Thị Kim Yến, 

Phanxicô Lê Quang Thạch, 

Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Đồng, 

Phaolô Nguyễn Bá Định, 

Phaolô Trần Đình Sự, 

Phêrô Hà Đăng Hiếu, 

Phêrô Phạm Minh Châu, 

Tê-rê-sa Lê Thanh Tâm, 

Têrêsa Nguyễn Ngọc Minh Thi, 

Têrêsa Nguyễn Thị Xuân Trang, 

Têrêxa Nguyễn Thị Trông.


Ban Tổ chức xin có lời chúc mừng và thân ái mời tất cả các tác giả có bài vào chung khảo tham dự cuộc họp mặt trao giải vào 21-22/9/2018 tại Qui Nhơn (sẽ có thư mời sau). Đồng thời xin mỗi vị vui lòng chuẩn bị một ảnh chân dung mới để khi có bài vào tuyển tập” là có ảnh để nộp ngay cho Ban Tổ chức. 

Cũng xin nhắc lại, Ban Văn hóa Giáo phận Qui Nhơn đang chuẩn bị để kịp phát hành số ra mắt tuyển tập Bông Hồng Nhỏ, dành cho Thiếu niên và Nhi đồng, vào Mùa Vọng 2018. Bước đầu, tuyển tập này dự kiến phát hành ba tháng một tập, 32 trang khổ 20cmx28cm. Khoảng 12 trang truyện tranh cho các em 7-9 tuổi, 20 trang văn thơ cho các em 9-15 tuổi. Một cuộc thi sáng tác truyện tranh sẽ được phát động vào tuần tới. 

Chúng tôi tha thiết kính mời quý tác giả văn thơ và các họa sĩ thích viết vẽ cho thiếu nhi ở khắp nơi cùng hợp tác vào chương trình khiêm tốn này, để cùng góp phần giáo dục và đào tạo lớp trẻ cho Giáo hội. Ngay từ bây giờ, quí vị đã có thể gởi sáng tác cũng như ý kiến đóng góp của mình về email: tapsanbonghongnho@gmail.com

Giờ đây trân trọng kính mời mọi người tiếp tục thưởng thức bài đầu trong loạt 10 bài dự thi cuối cùng đã được chọn qua vòng sơ loại. Xin tiếp tục theo dõi những bài khác sẽ lần lượt giới thiệu trên blog Văn Thơ Công Giáo và Mục Đồng trực tuyến (vanthoconggiao.net và tapsanmucdong.net). 

Nguyện xin Thiên Chúa ban muôn phước lành cho tất cả chúng ta. 


Quy Nhơn, ngày 30-6-2018 

Lm. Trăng Thập Tự 

Trưởng ban Tổ chức

 Khổng Vĩnh Nguyên (Bình Định)

Máu tim nguyên thủy

Thân thể ta là đền thờ

Một hôm mây trắng bất ngờ ghé thăm

Niềm tin sư tử đang gầm

Máu tim nguyên thủy trăng rằm lung linh...

 

Huyền âm vang vọng

Đem thân làm cuộc ngao du

Hồn thơ qua đỉnh sa mù pháp không

Bàn chân đo sóng biển đông

Huyền âm vang vọng núi sông im lìm..



"THIÊN CHÚA, NGƯỜI CHĂN CHIÊN NHÂN LÀNH"
TRONG NGHỆ THUẬT CÔNG GIÁO 


Hình ảnh Chúa Giêsu với con chiên hiền lành trên vai hay trên tay, hay hình ảnh Chúa Giêsu đứng giữa đàn chiên ngoan ngoãn bình yên nơi đồng cỏ, trong khi, hiện diện khá phổ biến trong các hình thức nghệ thuật công cộng (Public Art)-như tranh ghép kiếng, tranh khảm đá ở các nhà thờ-hay trong các hình thức nghệ thuật đại chúng (Popular Art)-như các loại tiểu họa (icon) ngày xưa và các loại tranh in ngày nay-thì lại, có vẻ như, rất ít được các nghệ sĩ “tên tuổi” quan tâm. Số lượng tác phẩm thực sự đặc sắc về chủ đề này khá hiếm hoi. Rà soát lại toàn bộ lịch sử nghệ thuật Công giáo, kể từ thời Giotto (1267-1377) cho đến nay, về chủ đề này, nổi tiếng, chỉ có vài tác phẩm của Mirullo (1617-1682) và Tissot (1836-1902).

Tại sao có sự hiếm muộn như vậy?

Câu hỏi này đã từng được đặt ra nhưng chưa bao giờ được trả lời thỏa đáng. Ở đây, tôi chỉ ghi chú về mặt hiện tượng. Tôi sẽ trở lại với vấn đề này trong các bài viết khái quát về sự vận động phát triển của nghệ thuật Công giáo dựa trên các phát kiến Mỹ học Thần học (Theological Aesthetics) hiện đại hơn, sau khi đã giới thiệu một cách tương đối đầy đủ các tác phẩm tiêu biểu ở các chủ đề tiêu biểu của nghệ thuật Công giáo…

Trước mắt, chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu hai tác phẩm được biết đến nhiều nhất về chủ đề đang được đề cập của hai họa sĩ nổi tiếng nói trên.

Murillo, (tên đầy đủ: Bartolomé Esteban Murillo), được xem là họa sĩ Tây Ban Nha nổi tiếng nhất ở châu Âu đương thời. Ngoài mảng tranh đề tài Công giáo thành công nổi bật với các tác phẩm vẽ Đức Mẹ Maria đầy vẻ thanh thoát, dịu hiền, những bức tranh vẽ các em bé nghèo khó trên đường phố thể hiện tình cảm vừa yêu thương vừa tin cậy của ông cũng đã gây xúc động lớn trong lòng người xem. Người ta đã nói nhiều về ông như một họa sĩ bậc thầy trong việc chuyển tải các cảm xúc trữ tình siêu hình thông qua các hình ảnh cụ thể, chân thực bằng cách thể hiện ánh sáng tinh tế với bảng màu nồng ấm. Và, chính sự nhẹ nhàng, trong sáng trong cách nhìn (đối tượng) và cách thể hiện nghệ thuật đã khiến cho tác phẩm của ông có sức quyến rũ lớn chinh phục tình cảm người xem…

Tác phẩm “Thiên Chúa-người chăn chiên nhân lành” được ông vẽ năm 1660, là tác phẩm nổi tiếng đương thời và được biết đến nhiều nhất cho đến ngày nay. Trong tác phẩm, ông thể hiện Thiên Chúa trong hình ảnh một em bé trong bộ đồ hồng nhạt trong sáng với gương mặt bụ bẩm và đôi mắt tròn xoe vừa ngây thơ vừa đầy vẻ cương nghị. Bên cạnh là chú cừu non màu trắng ngà có dáng dấp điềm tĩnh, hiền lành. Người ta đã nói nhiều về ý nghĩa của hình ảnh trẻ thơ khi thể hiện Thiên Chúa trong tác phẩm này của ông. Với tác phẩm này, dường như, ông đang thể hiện một cách hiểu siêu hình về Thiên Chúa ở tư cách là “Chủ chăn”. Cách hiểu này chuyển hóa hình ảnh Thiên Chúa, và mang chúng ta lại gần hơn với Thiên Chúa, nhớ lại Lời Chúa: “Cứ để trẻ em đến với Thầy đừng ngăn cản chúng vì Nước Trời thuộc về những ai giống như chúng” (Mt 19,14). Hình ảnh một ngôi đền cổ đổ nát trên nền bầu trời xanh tươi mát làm bối cảnh trong tranh dường như cũng được vẽ với chủ ý nhất định. Nó gợi cảm tưởng về một sự tái thiết và hy vọng…




Tác phẩm này của Murillo hiện đang được lưu giữ tại Bảo tàng Prado ở Madrid, Tây Ban Nha.

Có lẽ cũng nên nói thêm một ít về Murillo: Ông là người sáng lập ra Viện Hàn lâm Nghệ thuật Seville (“Academy of Fine Arts in Seville”-Seville là tên quê hương, nơi ông ra đời) năm 1660, và là chủ tịch đầu tiên. Với Viện Hàn lâm này, ông đã tạo nên một ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển của nghệ thuật Công giáo ở Tây Ban Nha cho đến mãi sau này.

Người thứ hai, Tissot (tên đầy đủ: James Tissot) có thể xem là một trường hợp đặc biệt trong lịch sử nghệ thuật Công giáo hiện đại. Ông là họa sĩ người Pháp, học tại École des Beaux-Arts ở Paris. Suốt mấy chục năm đầu, ông được biết đến như một trong những họa sĩ tiêu biểu của trào lưu Ấn tượng chủ nghĩa (Impressionism)-hướng đến vẻ đẹp của thiên nhiên, của hình ảnh phụ nữ và trang phục thời trang...(2) Tuy nhiên, trong khi đang nổi tiếng với những tác phẩm diễm lệ đời thường đó, như “đi theo một tiếng gọi thiêng liêng”, từ năm 1886, ông hầu như dứt bỏ tất cả, để dành gần như toàn bộ quãng đời còn lại để vẽ tranh Thánh. Trong các năm 1886, 1889, 1896 ông đã nhiều lần qua Trung Đông tìm hiểu, ghi chép thực tế hình ảnh cảnh quan và con người… để thực hiện bộ tranh minh họa Kinh Thánh đồ sộ của mình. Cho đến khi qua đời, ông đã vẽ được gần 700 tác phẩm, trong đó, bộ Tân Ước với 365 tranh vẽ bằng màu nước có tên “Cuộc đời Đức Kitô” đã hoàn chỉnh. Đây là bộ tranh vô cùng nổi tiếng, và tất cả, hiện đang được lưu giữ tại Bảo tàng Brooklyn, New York, Hoa Kỳ. Ngay từ 1896, 1898 bộ tranh này đã được in thành sách và phát hành rộng rãi ở các nước nói tiếng Anh và tiếng Pháp. (3)



Tác phẩm “Người chăn chiên tốt” giới thiệu ở đây, là được rút ra từ bộ tranh minh họa nổi tiếng này của Tissot.

Nhìn tranh, chúng ta dễ dàng nhận biết họa sĩ đang diễn tả dụ ngôn “Con chiên lạc mất”- một trong chuỗi ba dụ ngôn của Chúa Giêsu nhằm trả lời những người Pharisee và những lãnh đạo tôn giáo khác khi họ kết án Người: “đón chào kẻ có tội và ngồi ăn với họ”-trong Kinh Thánh Tân Ước. Tác phẩm thật sinh động với hình ảnh người chăn chiên hớn hở cõng chú chiên đi lạc và đã được tìm thấy trên vai nơi vách đá cheo leo để lại đằng sau lưng phía xa kia những con chiên ngoan hiền còn lại của mình. Cái chỗ đứng, cái dáng dấp và thần thái chân dung nhân vật được thể hiện đã mang lại cho người xem cảm nhận về tinh thần tận tuỵ, tâm hồn đôn hậu và tình cảm yêu thương chân thành nơi người chăn chiên. Sự sống động của bức tranh có sức mạnh như đã làm sống lại Lời Chúa nơi mỗi người xem: “Anh em nghĩ sao? Ai có một trăm con chiên mà có một con đi lạc, lại không để chín mươi chín con kia trên núi mà đi tìm con chiên lạc sao? Và nếu may mà tìm được, thì Thầy bảo thật anh em, người ấy vui mừng vì con chiên đó, hơn là vì chín mươi chín con không bị lạc. Cũng vậy, Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất.” (Matthew 18:12-14)

Điều cần nói ngay, hai tác phẩm nói trên, tuy là hai tác phẩm nổi tiếng nhất với chủ đề “Thiên Chúa, người chăn chiên nhân lành” và có một vị trí nhất định trong thế giới nghệ thuật Công giáo, nhưng sự thực, chỉ có vị trí hết sức khiêm tốn trong lịch sử nghệ thuật nhân loại. Chúng không phản ánh hết tài năng của các tác giả, và xa lạ với tinh thần thời đại (khi chúng ra đời). Điều này có căn nguyên mỹ học và có quan hệ đến một số vấn đề thần học. Sẽ không thực tế nếu đòi hỏi một sự phân tích thấu đáo ngay ở đây. Như đã nói ở đầu bài, tôi sẽ quay lại vấn đề này sau khi đã điểm qua tương đối đầy đủ các tác phẩm tiêu biểu với các chủ đề tiêu biểu của nghệ thuật Công giáo.


(Bài đã in trong sách Nghệ thuật Công giáo-tập 1)

* Phêrô Nguyễn Minh Khả (Gx.Cây Rỏi)

Nắng hè ghé trước ngõ
Gọi bé đi học nào
Gió ca hát trên cao
Theo bước chân tới lớp.


Vòng tay đứng ngay ngắn
Cùng đọc kinh Sáng Soi
Xin Thiên Chúa Ba Ngôi
Hướng dẫn bé học nhé.

Học văn rồi làm toán
Thêm bao nhiêu điều hay
Nụ cười vui mỗi ngày
Bạn bè càng gắn kết.

Cha dạy bé cầu nguyện
Nói chuyện với Giêsu
Sống gương Chúa nhân từ
Yêu thương và vui vẻ.

 

Võ Thị Kim Phượng (Bà Rịa)

 

Vấp vào một chiều phố huyện

Còn không đoá cúc hoạ mi

Còn không nụ cười ngọt lịm

Ừ! Còn ánh mắt trinh nguyên.

Nắng vàng thay màu tóc bạc

Ngạt hương hơi thở không mùi

Đôi chân một lần thất lạc

Độc hành thôi... kiếp viễn du.

 

Vướng lại chiều nay phố cũ

Bàn chân cũng đã cũ rồi

Dấu chân mãi là không đủ

Trải dài con phố... mưa trôi.

 

Nắn nót nụ cười son trẻ

Vuốt ve mái tóc chưa dài

Cuối trời ai vừa gọi Mẹ

Giật mình thương đoá hoa phai.

Hồng Phúc (Bình Định)

Mừng nay Ánh Chúa ngời soi

Rưới lên nhân thế bao đời tối tăm

Chút xanh gửi bạn trăm năm

Chút vàng gửi nửa vầng trăng lên đường

Xin cho thanh thản dòng sông

Ngời lên trang sử nhánh rồng lượn quanh

Đường về biển Mẹ ngát xanh

Đèo mây trắng đỉnh Ngũ Hành Sơn ca

 

Xin đem nốt nhạc xuân hòa

Cánh đồng tri thức đơm hoa trỗ đòng

Trái tim trời biển mênh mông

Cho ta cùng bạn ước mong hiện thành.



 

1.  Thánh Ignatiô DELGADO Y, Giám mục dòng Đaminh (1762-1838)

http://hddmvn.net/tusach/tusach/117tdvn/y-op-gm.htm


2.  Thánh Gioan Théophane VÉNARD VEN

http://hddmvn.net/tusach/tusach/117tdvn/ven-lm.htm

3. Thánh Phaolô PHẠM KHẮC KHOAN

http://hddmvn.net/tusach/tusach/117tdvn/khoan-thanh-hieu.htm

4.Thánh Anrê Nguyễn Kim Thông (Năm Thuông)

http://hddmvn.net/tusach/tusach/117tdvn/thong-gd.htm

5. Thánh Emmanuel Lê Văn Phụng

http://hddmvn.net/tusach/tusach/117tdvn/phung-gd.htm

6. Thánh Phêrô VŨ TRUẬT

http://hddmvn.net/tusach/tusach/117tdvn/duog-my-truat.htm

7. Thánh Gioan Charles Cornay Tân

http://hddmvn.net/tusach/tusach/117tdvn/tan-mep-lm.htm

8. Thánh Simon PHAN ĐẮC HÒA

http://hddmvn.net/tusach/tusach/117tdvn/hoa-gd.htm


9. Thánh Phêrô ĐOÀN CÔNG QUÝ

http://hddmvn.net/tusach/tusach/117tdvn/quy-lm.htm

10. Thánh Phaolô LÊ BẢO TỊNH

http://hddmvn.net/tusach/tusach/117tdvn/tinh-lm.htm

11. Thánh Anrê TRẦN AN DŨNG LẠC

http://hddmvn.net/tusach/tusach/117tdvn/dung-lac-lm.htm

Nguồn: http://hddmvn.net/cham-ngon-cac-thanh-tu-dao-viet-nam/



Một trong các lời than phiền mà người Công giáo chúng ta nghe được từ người khác là Thánh Lễ nhàm chán lắm. Có thể thi thoảng chính chúng ta cũng nghĩ như vậy. Người ta than rằng họ không được gì khi tham dự Thánh Lễ. Đôi khi chúng ta quên rằng Thánh Lễ không quá nhiều về chúng ta vì Thánh Lễ là chúc tụng và thờ phượng Thiên Chúa. Đó không là cách chúng ta cảm nhận.

Thật vậy, cảm xúc của chúng ta là nguồn sự thật và thực tế bất kham không đáng tin. Chúng thay đổi từng ngày và ảnh hưởng bởi rất nhiều yếu tố ngoại tại và nội tại. Đừng cho rằng ma quỷ luôn tìm cách kéo chúng ta xa rời Thiên Chúa bằng cảm xúc và sự tưởng tượng của chúng ta. Thiên Chúa cũng chẳng như cảm xúc của chúng ta. Nếu chúng ta dành quá nhiều thời gian tập trung vào cách chúng ta cảm nhận, chúng ta sẽ thấy mình tôn thờ cảm xúc của mình chứ chẳng tôn thờ Thiên Chúa.

Tất cả chúng ta sẽ trải nghiệm những lúc mà các vị linh hướng gọi là sự phiền muộn và sự an ủi. Chúng ta sẽ dành nhiều thời gian chú ý tới sự phiền muộn hơn là sự an ủi khi Thiên Chúa muốn tẩy rửa và giải thoát chúng ta khỏi dính líu những thứ trần tục, kể cả việc đặt cảm xúc ở trung tâm cuộc đời của chúng ta. Nếu không được kiểm soát, cảm xúc sẽ dẫn chúng ta vào con đường lầm lạc và thậm chí là nguy hiểm. Đó là sự thật khách quan về đời sống hằng ngày, nhưng nó cũng gắn liền với cách chúng ta hiểu biết về Thánh Lễ. Chúng ta không là trung tâm của Thánh Lễ, chính Đức Kitô mới là trung tâm của Thánh Lễ.

1. CHUẨN BỊ THÁNH LỄ

Một trong những khó khăn mà tất cả chúng ta đều đối mặt trong nhịp sống ngày nay là KHÔNG DÀNH THỜI GIAN ĐỂ CHUẨN BỊ CHO THÁNH LỄ ĐÚNG MỨC. Chúng ta vội vàng đi lễ, nhiều người tới nhà thờ thì Thánh Lễ đã bắt đầu, có khi đã đọc sách thánh xong, rồi chia trí đủ chuyện và cảm xúc mơ hồ. Mục đích của Thánh Lễ là đưa chúng ta vào mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi – đặc biệt là qua sự sống, sự chết, và sự phục sinh của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.

Thánh Lễ đưa chúng ta vào mối quan hệ kết hiệp với Thiên Chúa và tha nhân trong Đức Kitô để chúng ta có thể đi vào thế giới và loan báo Tin Mừng. Thánh Lễ còn là dịp chúng ta chia sẻ sự hy sinh của Đức Kitô qua việc dâng của lễ – qua thừa tác viên linh mục – và dâng sự hy sinh của chúng ta lên Thiên Chúa qua bí tích Thánh Thể. Trời và đất gặp nhau trong Thánh Lễ. Theo nghĩa đen, chúng ta đặt một chân lên mặt đất và một chân bước vào cõi vĩnh hằng mỗi khi tham dự Thánh Lễ.

Cần phải nuôi dưỡng thói quen tốt đối với Thánh Lễ để khi có những lúc khô khan (không thể tránh) thì chúng ta có thể kiên trì và không rơi vào tình trạng chán nản hoặc thất vọng. Chúng ta phải học cách giữ thinh lặng trong tâm hồn và ngoài thể lý. Hãy nhớ rằng cả nội tại và ngoại tại đều là vấn đề và liên quan lẫn nhau. Đó là lý do Giáo Hội biết rõ khi nhấn mạnh về vẻ đẹp của các dạng, nhất là trong Thánh Lễ. Đó là lý do bí tích Thánh Thể được Chúa Giêsu thiết lập vừa là hữu hình vừa vô hình. Chúng ta có xác hồn nên chúng ta xử lý với thân xác và các cảm nghiệm thực tế, đó là vừa vật chất vừa tinh thần. Đó cũng là lý do chúng ta đối mặt với nhiều chước cám dỗ tập trung vào thể lý khi điều khiển tinh thần.

2. VÀO CÕI TĨNH LẶNG

Chính sự thinh lặng không có nghĩa là một dạng tự hành hạ mà chúng ta muốn để duy trì sự tĩnh lặng thể lý, tâm trí và linh hồn trong suốt Thánh Lễ. Hơn nữa, đó là cách sắp xếp đời sống tâm linh để chúng ta được bình an. Khi sự tĩnh lặng này bao phủ, chúng ta có thể nghỉ ngơi trong Chúa và tham dự vào những mầu nhiệm. Điều này không dễ đạt được, cần phải cầu nguyện và kỷ luật. Chúng ta sống trong thời đại bận rộn, vội vã, có thể khó hoặc có vẻ không thể tìm được sự tĩnh lặng trong cuộc sống hàng ngày. Để có thể thinh lặng trong Thánh Lễ, chúng ta phải tập luyện giữ thinh lặng mỗi ngày. Hằng ngày, hãy dành vài phút để cầu xin Chúa làm cho chúng ta tĩnh lặng trong tâm hồn, rồi tâm trí sẽ cho phép chúng ta đi vào cõi tĩnh lặng sâu thẳm khi chúng ta tham dự Thánh Lễ.

Trong cuốn “Meditations Before Mass” (Suy Niệm Trước Thánh Lễ), tác giả Romano Guardini giải thích về sự cần thiết của sự tĩnh lặng: “Con người sinh sống, và động vật di chuyển; sự tuân thủ từ bên ngoài không ngưng nghỉ. Vì thế, sự tĩnh lặng vẫn còn, và nó chỉ xuất hiện khi nó được mong muốn. Nếu chúng ta đánh giá cao sự tĩnh lặng, nó sẽ đem niềm vui đến cho chúng ta; nếu không thì chỉ là sự khó chịu… Hơn nữa, sự tĩnh lặng không nên hời hợt, vì khi đó sẽ có tiếng nói hoặc sự lúng túng; tư tưởng, cảm xúc, tâm hồn cũng phải tìm được sự nghỉ ngơi. Rồi sự tĩnh lặng đích thực sẽ thấm sâu vào chúng ta, lan tỏa ra xung quanh”.

Sự tĩnh lặng đem lại bình an và niềm vui, giúp chúng ta giao tiếp với Thiên Chúa ở mức sâu rộng hơn. Sự tĩnh lặng đưa chúng ta vào những nơi bí ẩn trong chúng ta để chúng ta có thể khám phá Ngài. Thánh Lễ là thời gian chúng ta có thể hiểu các bí ẩn mà chúng ta chưa biết và được bổ dưỡng bằng Mình Máu Thánh Chúa. Các bí ẩn này mang ý nghĩa và cách hiểu mới hơn nếu chúng ta có thể duy trì sự tĩnh lặng trong đời sống của chúng ta.


3. THAM DỰ THÁNH LỄ

Để có thể giữ thinh lặng trong Thánh Lễ, chúng ta cần đến nhà thờ sớm. Rất nhiều người đến nhà thờ vội vã, chia trí, kích động, chán nản, hoặc mệt mỏi. Những người có con nhỏ đều biết rằng đó có thể là cuộc đấu tranh thực tế để giục người khác đi lễ đúng giờ. Đến nhà thờ sớm vài phút cho chúng ta cơ hội cầu xin Chúa thanh tẩy lòng trí khỏi mọi điều lo lắng. Điều đó có vẻ như không thể, nhưng chúng ta có thể đạt được khi kiên nhẫn với đứa con đang trườn bò lên mình nhờ sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Hãy cố gắng thực hành và kiên nhẫn!

Đời sống tâm linh là nuôi dưỡng những thói quen tốt lành và cần có thời gian. Hãy kiên nhẫn với chính mình, nhưng hãy cố gắng đến nhà thờ 5-10 phút trước giờ lễ. Tác giả Romano Guardini giải thích: “Trước hết, chúng ta phải tới nhà thờ sớm để chuẩn bị tâm hồn. Chúng ta phải loại bỏ ảo tưởng về tình trạng của mình khi bước vào nhà thờ; chúng ta phải can đảm đối mặt với sự bồn chồn, sự lẫn lộn và sự rối loạn của chúng ta. Nói một cách chính xác, chúng ta chưa thực sự hiện hữu là những con người – không phải như con người mà Thiên Chúa nói, mà luôn hy vọng cách đáp lại phù hợp với mình. Chúng ta là những bó cảm xúc, tưởng tượng, ý tưởng, và các kế hoạch khác. Điều cần làm trước tiên là thinh lặng và tập trung. Chúng ta phải thành thật nói rằng tôi đang ở đây, và chỉ có một điều tôi cần làm là tập trung vào điều duy nhất: tham dự Thánh Lễ. Tôi hoàn toàn sẵn sàng”.

Sự chia trí và cuộc chiến tâm linh có thể là phương diện khó tránh khỏi về Thánh Lễ đối với đa số chúng ta, vì chúng ta chưa thực sự là “bậc thầy” về lĩnh vực tâm linh. Khi chúng ta cảm thấy bồn chồn áy náy, chúng ta phải tự cố gắng tập trung mỗi khi tham dự Thánh Lễ. Đối với đa số chúng ta, điều này xảy ra khá thường xuyên, nhưng theo thời gian, tình trạng đó sẽ biến mất khi chúng ta sống có kỷ luật.

Tôi thấy rằng tôi cầu xin Đức Mẹ kéo tôi gần với Mẫu Tâm Vô Nhiễm trước mỗi Thánh Lễ là việc làm hữu ích khi đấu tranh với các tư tưởng lan man, chước cám dỗ, hoặc những điều làm chia trí khác. Thật tốt lành, nhà thờ giáo xứ tôi có tượng Đức Mẹ đứng dưới chân Thánh Giá, thế nên tôi có thể chú ý tới Đức Mẹ khi tôi cảm thấy khó giữ tĩnh lặng.

Khi chúng ta nhận thấy mình tiến bộ trong sự tĩnh lặng về thể lý và tâm hồn, chúng ta không còn thấy khó tập trung nữa, nhất là tập trung vào chính mình (vì có người cứ quay ngang quay dọc xem có ai nhìn mình không, rồi vuốt tóc, chỉnh áo quần,...). Thánh Lễ sẽ không còn nhàm chán, không còn cảm thấy lâu, không còn cảm thấy thời gian nặng nề trôi qua. Cách sắp xếp nội tâm của chúng ta có nhiều điều cần làm đối với nhận thức của chúng ta về Thánh Lễ. Rất nhiều người than phiền về Thánh Lễ, họ không làm được những việc cần đối với Chúa trước Thánh Lễ. Điều này không nghĩa rằng chúng ta không có những ngày tồi tệ.

Nhiều lần chúng ta không cảm thấy thoải mái, bị căng thẳng nhiều, hoặc mệt mỏi, nhưng khi nuôi dưỡng thói quen giữ tĩnh lặng, chúng ta có thể tập trung vào Thiên Chúa. Không phải lúc nào chúng ta cũng cảm thấy thoải mái khi đi lễ. Thật vậy, có thể có những lúc chúng ta khô khan nguội lạnh hoặc cảm thấy trống rỗng khi cố gắng bám vào Thập Giá để sống tốt hơn. Chắc chắn được nghỉ ngơi trong những lúc khó khăn và những lúc bình an, Chúa Giêsu vẫn nuôi dưỡng chúng ta bằng Lời Ngài và bằng Mình Máu Ngài để lôi kéo chúng ta vào sâu trong tình yêu và lòng thương xót vô biên của Ngài.

CONSTANCE T. HULL
TRẦM THIÊN THU (chuyển ngữ từ CatholicExchange.com)
Lễ Mình Máu Thánh Chúa Giêsu – 2018

Đừng Lo, Có Chúa!

“Đừng lo con ạ, mọi sự đã có Chúa lo rồi ”, đó là câu nói cửa miệng của ba mỗi lúc tôi gọi điện về nhà. Nhắc về ba tôi luôn không giấu nổi niềm tự hào với chúng bạn rằng mình có một người ba tuyệt vời. 


Ngay từ nhỏ anh chị em chúng tôi đã được ba vun đắp niềm tin mãnh liệt vào Chúa, ba nhắc nhở mọi người trong nhà đi nhà thờ đọc kinh, lần hạt, phải có lòng thương giúp đỡ người nghèo. Và những lời dạy của ba luôn đi kèm với hành động. Ba là người luôn có mặt ở nhà thờ trước, đi đâu ba cũng lần hạt, gặp người nghèo khi thì ba cho ít tiền, mời họ về nhà dùng bữa cơm. Tôi còn nhớ lần ba đưa về một bà cụ người đồng bào đi lạc, ba chăm sóc, cho ăn uống rồi bảo mẹ tôi đi lấy đồ áo cho cụ, cho cụ ngủ nghỉ ở nhà rồi ba lại tất tả chạy vào vùng dân tộc để tìm người thân cho cụ. Lần khác ba lại đưa về một người ăn xin mặc mặc kệ mùi hôi bốc ra từ người ăn xin đó, ba chuẩn chị giường ngủ, lo cơm ăn cho cụ. Mong ước của ba tôi luôn hướng về người nghèo. Nhà tôi chưa có tủ lạnh, máy giặt, anh chị bảo góp tiền để mua, ba tôi cản lại và nói: “Tụi bây lấy tiền đó cho ba, ba đưa người nghèo đi”. Thế là hết lần này đến lần khác, nhà tôi mới mua sắm được mấy thứ đó. 

Nhiều người bảo ba thích chuyện bao đồng, ba chỉ cười. Ba tôi làm bạn với những bợm nhậu, những người nghèo và những thành phần bất hảo. Ba bảo với tôi: “ Ba hòa nhập nhưng không hòa tan với họ”, ba lựa lời nói chuyện với họ, đôi khi chỉ là chuyện phiếm nhưng luôn nhắc nhở họ tu chí làm ăn. Ai nói gì mặc kệ, làm việc cho giáo hội, bị nhiều người hiểu lầm ba cũng chỉ biết im lặng và dâng tất cả cho Chúa. 

Vì lo chuyện “ bao đồng” nên ba cũng hay bị mẹ phàn nàn, trách móc nhưng ba “ mãi vẫn thế”. Tôi thương ba tôi! Nghĩ về ba là bao nhiêu kỷ niệm đầy yêu thương cứ ùa về, ba ít khi thể hiện tình cảm nhưng chỉ cần nhìn hành động của ba là tôi biết ba yêu chúng tôi đến nhường nào. Tôi làm sao quên được hình ảnh ba đứng chờ anh trai, rồi em trai ngoài cổng suốt đêm vì anh mải chơi chưa về. Ba nhiều đêm thức trắng vì lo cho chúng tôi, có những lần đợi chúng tôi ngủ, ba lại rón rén vừa cầm tràng hạt lần chuỗi vừa ngắm nhìn chúng tôi, kéo góc chăn đắp lại. Tôi giả vờ ngủ vì sợ ba giật mình. 


Rồi lúc tôi còn ở nhà, ba thường là người dậy nấu cơm nước cho chúng tôi. Ba nấu ăn rất ngon, những món ăn của ba đều mang một hương vị rất riêng đặc biệt. Những lần anh chị em chúng tôi về quê, ba lại là người đi đưa đón. Có lần ba chở tôi về, ba vòng tay ra sau ôm lấy tôi và bảo: “ Chui vào áo cho đỡ lạnh con”. Rồi trên đường về ba cố chạy chậm lại cho gió đỡ thổi buốt. 

 Năm tôi thi tốt nghiệp 12, khi kết thúc môn cuối cùng, ra tới cổng trường, ba đứng bên kia đường vẫn tay cho tôi. Tôi nhìn ba mà rưng rưng nước mắt, nhìn chiếc xe cà tàng với chiếc giỏ trên xe, thấy thương ba vô cùng. Ngồi lên xe, ba hỏi tôi thi cử thế nào, có mệt không? Tôi hỏi sao ba lại ra đây, ba bảo ba mới đi bán dứa rồi chờ con về luôn, lúc đó tôi đã khóc. 

Ngày còn nhỏ, tôi ít nói chuyện với ba, thâm chí là cố gắng trốn tránh mỗi khi có thể. Với trí óc non nớt tôi không đủ để hiểu được tình thương của ba dành cho tôi, thay vào đó tôi thường trách móc và hờn dỗi vì mỗi lần bị ba đánh, ba la. Đến khi lớn lên, rời khỏi gia đình để đi học xa, tôi mới cảm nhận được rõ rệt tình thương của ba dành cho tôi. 

Gia đình tôi có giai đoạn phải trải qua rất nhiều chuyện và ba là người gánh vác tất cả. Lần đầu tiên tôi thấy ba khóc đó là lúc chị cả mất, ba ôm chặt cỗ quan tài đau xót. Anh chị em tôi chỉ biết khóc, nỗi đau của chúng tôi không thấm với nỗi đau của ba. Mãi về sau này, mỗi lần ba nói chuyện với tôi lại nhìn ra khu vườn đầy cây trái và nhắc về chị cả. Tôi biết ba nhớ chị lắm.

Đối với anh chị em chúng tôi, ba không những là người ba đầy trách nhiệm mà còn là thầy dạy đức tin cho chúng tôi, là người bạn để mỗi khi chúng tôi mệt mỏi, lo lắng bất an, ba lại xuất hiện như vị cứu tinh, an ủi và động viên chúng tôi đặt niềm tin, phó thác vào Chúa.

Maria Hưởng Nguyễn
Nguồn: Bản tin online tháng 6/2018 của Ủy ban Giới trẻ và Thiếu nhi - Hội đồng Giám mục VN

WORLD CUP ĐẦU TIÊN

Ông Rimet (trái) trao cúp vàng World Cup cho đại diện Uruguay, nước tổ chức WC đầu tiên 

Thánh Vịnh gia nói: “THIÊN CHÚA MẾN CHUỘNG DÂN NGƯỜI, BAN CHO KẺ NGHÈO HÈN ĐƯỢC VẺ VANG CHIẾN THẮNG” (Tv 149:4). Câu Kinh Thánh này thường được chúng ta quen “nói tắt” thế này: “Thiên Chúa vui thích ở giữa dân Người”. Hãy mời Thiên Chúa đến chia sẻ niềm vui World Cup với chúng ta!

Được ĐGH Leo XIII gợi ý, ông Jules Rimet – một người Công giáo – đã thành lập giải World Cup đầu tiên để nối kết các nước chiến tranh xích lại gần nhau.

Nhiều thập niên đau thương được Skinner và Baddiel nhớ lại vào ngày trước giải Euro năm 1996. Đã hơn 50 năm kể từ khi Anh quốc thắng giải túc cầu (tên gọi khác của môn bóng đá) thế giới quan trọng. Và World Cup 2018 đã chính thức khai mạc tại nước Nga.


Người Anh sáng tạo môn thể thao túc cầu, nhưng họ không sáng tạo World Cup. Đó là “công trình” của Jules Rimet.

Rimet sinh năm 1873 tại làng Theuley, thuộc Đông Pháp, ngay sau cuộc chiến Pháp–Phổ (Franco–Prussian War), nhưng phần lớn cuộc đời lại sống ở Paris. Ông là người tự lập và là một luật sư thành công, là tín hữu Công giáo biết quan tâm xã hội, trong đó có vấn đề thể thao, ông ảnh hưởng việc giáo dục của Giáo Hội.

Cha ông là Séraphin Rimet, một nông dân phải bán đất trong thời gian khủng hoảng kinh tế. Khi cha mẹ chuyển tới Paris để sống an toàn, Jules vẫn được ông nội chăm sóc và làm lễ sinh ở nhà thờ.

Mặc dù không ở bên cha mẹ, Jules vẫn là một đứa trẻ hạnh phúc. Tai họa kinh tế lại biến động cuộc đời ông vì ông nội phải bán nhà máy. Mùa hè năm 1884, cậu bé Jules 10 tuổi phải rời quê hương tới Paris để ở với cha mẹ, bắt đầu sống trong khu lao động Gros-Caillou.

Hồi nhỏ, Rimet tự tìm hiểu với các bạn Công giáo về môn quyền cước (kickboxing, kết hợp quyền anh và karatê) và xà ngang (barres), môn nhào lộn có nguồn gốc từ thời Trung cổ. Nhưng lương tâm xã hội của ông thức tỉnh bởi ký ức đau khổ của gia đình. Năm 1891 xuất hiện Thông điệp “Rerum Novarum” (Tân Sự) của ĐGH Leo XIII đề cập vấn đề xã hội và tư bản, khi đó Jules 17 tuổi. Jules và các bạn quan ngại như Đức giáo hoàng về cảnh khổ của giới lao động và sự thất bại về chủ nghĩa tự do kinh tế, cần có cách cứu vãn. Nhưng họ không có xe cộ để đi nghe thuyết trình về phương pháp cải cách lao động.

Rimet và các bạn thành lập tổ chức giúp đỡ người nghèo về phương diện xã hội và y tế. Họ thúc đẩy sự cải cách của ĐGH Leo, sau đó được giúp đỡ bởi tổ chức Le Sillon, phong trào tôn giáo – chính trị của Marc Sangnier (1873-1950), hoạt động từ 1894 tới 1910. Marc Sangnier là người ủng hộ tư tưởng xã hội Công giáo tại Pháp trong bước ngoặt đó. Nhưng năm 1910, ĐGH Piô X kết án tổ chức Le Sillon về tính hiện đại của nó.

Rimet cũng tham gia ban tổ chức của Sangier về Hội nghị Crypte, bàn về cảnh ngộ của người lao động, tổ chức tại một nhà nguyện bí mật ở Paris. Tóm lại, Rimet trở thành nhà cải cách xã hội theo khuân mẫu Công giáo, tìm cách giải hòa Giáo Hội với cộng đồng.

Năm 1905, Rimet hướng tới môn túc cầu, thấy nó có cách mạnh mẽ để thúc đẩy sự hài hòa xã hội. Năm 1897, ông mở câu lạc bộ “Red Star” (Sao Đỏ, tên gọi này được gợi hứng từ cách vận chuyển của Anh quốc). Ý định này nhằm chuyển hướng giới lao động trẻ để họ không theo cánh tả mà chống đối giáo sĩ. Các cuộc bàn luận về chính trị đều bị cấm.

“Red Star” phát triển thành một trong các câu lạc bộ hàng đầu tại Pháp, ba lần giành được French Cup trong thập niên 1920. Rimet dẫn tới đỉnh cao của túc cầu thế giới, mặc dù Thế Chiến I làm gián đoạn. Ông phục vụ tại tiền phương 4 năm và được trao huy chương Croix de Guerre.

Sau khi chiến tranh kết thúc, ông làm chủ tịch FFF (Fédération Française de Football – Liên đoàn bóng đá Pháp quốc), rồi làm chủ tịch FIFA (Fédération Internationale de Football Association – Liên đoàn bóng đá Thế giới) năm 1921.

FIFA đề nghị giải vô địch thế giới cho các đội quốc gia. Rimet là người Công giáo sùng đạo và là cựu chiến binh, ông luôn tin rằng túc cầu có thể “truyền bá sự hiểu biết và sự hòa giải giữa các chủng tộc trên thế giới”, và World Cup đầu tiên được tổ chức tại Uruguay năm 1930, tên ông ghi trên bức tượng World Cup đó. Ông là chủ tịch FIFA 33 năm, ông hãnh diện nói rằng tổ chức này không bị tổn thương vì Thế Chiến. Ông qua đời năm 1956, và ông được trao giải Nobel Hòa Bình.

Ông Jules Rimet là người lạc quan, khuyên người ta đừng thất vọng, phản đối giải tán các đội bóng hiện đại vì phải trả lương cao. Đặc biệt là ông biết giá trị của sự hòa bình. Khi sinh thời, ông đã nhìn thấy nhiều cầu thủ tồi tệ vì háo danh và hám lợi.

World Cup 2018 diễn ra dưới những đám mây bão tố chính trị, ước mong tình đoàn kết hữu nghị luôn thực sự hiện hữu giữa các quốc gia!

SỰ THẬT MINH NHIÊN: NGƯỜI CÔNG GIÁO LẬP RA WORLD CUP. TẠ ƠN CHÚA. Có thể nói rằng cái gì hay và được thế giới công nhận đều có nguồn gốc từ Công giáo, nhưng người ta không muốn nhìn nhận vì hèn nhát và ghen ghét Công giáo.

Mùa Túc Cầu Thế Giới – 2018

Mời xem thêm 


* Maria Trần Thị Mỹ Hạnh (Gx.Cây Rỏi)

Con nghe thấy mùa hè đang gõ cửa
Ánh trăng vàng chen khe lá vào sân
Bầu trời đêm lặng lẽ mà nhanh chân
Đem kỉ niệm ùa vào trong tâm trí

Con trông thấy tình bạn thật cao quý
Từ bốn phương gọi nhau là anh em
Dù xa lạ hay bạn bè thân quen
Đặng Đức Tuấn ngôi nhà ta hướng tới

Đêm cầu nguyện, lắng nghe tiếng Chúa nói
Mở tâm hồn bạn sẽ gặp Chúa thôi
Ngài bên cạnh dõi bước con vào đời
Đi cùng con đến chân trời góc biển.



ƯỚC NGUYỆN CỦA MUỐI 


"Chính anh em là muối cho đời. Nhưng muối mà nhạt đi, thì lấy gì muối nó cho mặn lại ? Nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi.”  (Mt: 5, 13) 


Tôi là hạt muối nhỏ nhoi 
Năm xưa tôi sống lẻ loi phận mình 
Loanh quanh ngày tháng kiếm tìm 
Muối kia chỉ thấy nổi chìm bão giông 
Từ ngày tin Chúa là đường 
Muối tôi đã mặn lại nồng hơn xưa!... 



Tôi vui biết mấy cho vừa 
Tựa cơn nắng hạn gặp mưa giữa đồng 
Hôm nay hạt muối thêm nồng 
Hồn tôi thỏa chí tang bồng, người ơi! 



Khi gió lộng cánh hoa rơi 
Khi chiều sương xuống chợ đời vắng tanh 
Muối xin ướp mặn màu xanh 
Để cho hy vọng long lanh vẫn còn 
Khi reo lên tiếng cười giòn 
Là khi muối ướp màu son cho đời...! 


Ngước nhìn lên ánh mặt trời 
Muối thầm nguyện ước những lời tâm can 
Tôi xin mãi được hòa tan 
Xin là hạt muối giữa làn biển xanh 
Ước mong đời sẽ trong lành 
Đừng làm muối nhạt vắng tanh chợ đời!!! 

Ngòi bút nhỏ 9/6/2015