KẺ BÁN CÁ 

Chúa Giêsu kêu gọi các môn đệ

(Mã số: 18-126)

Mặt trời đã nằm sẵn trên đường chân trời nhưng chưa vội lặn. Người ta có thể nhìn thấy nó to như một chiếc nong lớn, nhuộm màu đỏ rực. Ánh sáng của nó làm đỏ bừng cả một vùng trời, kéo dài trên cánh đồng đã gặt sạch lúa. Ít tia sáng yếu ớt chiếu thẳng vào khuôn mặt Giuđa Itcariốt, làm hiện rõ những nét đau khổ tột cùng. Nước mắt đã dần cạn, vài giọt còn sót lại, từ từ chảy trên gò má gầy sạm và rơi xuống đất. Giuđa vẫn cứ đứng im hướng về mặt trời, hai mắt nhắm lại, cay sè sau khi đã trút hết những giọt nước mắt cuối cùng. Lúc sau, anh quay người lại, bước chân lên tảng đá đã kê sẵn, hai tay run run nắm lấy dây thòng lọng đã cột chặt vào cành cây sung, từ từ đưa vào cổ của mình. Cái dây oan nghiệt này sẽ giúp anh kết thúc cuộc đời tội lỗi của mình: “Một người môn đệ dám bán rẻ Thầy mình cho quân dữ”. 

* * * 

1.


- Anh Giuđa! Buôn bán thế nào rồi? 

- Ôi dào! Bán buôn gì chú... Chỉ là vài con cá kiếm cơm thôi. Nhưng mà hôm nay ế quá! 

- Thế là sao? Hôm nay, mẻ cá của anh không ngon à? 

- Ngon chứ! Toàn là cá lớn không ấy chứ. Nhưng người ta không mua cũng đành chịu thôi. Chắc phải đem về cho vợ muối ăn dần thôi. 

- Ừ, được đấy!... Anh xem gánh rau của tôi cũng ế quá nè! Chắc bỏ, chứ rau muối chua ở nhà nhiều quá rồi. Đúng là dạo này khó làm ăn quá... 

Đó là tiếng than của anh Paul Tan, chuyên trồng và bán các loại rau ở khu chợ Binh Tan, gần biển hồ Galilê. Gian hàng của anh gần bên cạnh hàng cá của anh Giuđa con ông Itcariốt. Mấy tháng trước, cả anh và Giuđa đều buôn bán được lắm. Thế mà hôm nay bán cả ngày chẳng được mươi hào. Từ sáng tới chiều, cả hai phải mời mọc đến trẹo quai hàm mới có ít người thân quen ghé mua. Cả hai chẳng hiểu làm sao cả, ngồi than thở với nhau. Đang khi họ buông những lời sầu não thì có một khách lạ, trông giống như những người ở Nazaret, ghé vào hỏi thăm. 

- Này hai chú! Hôm nay không làm ăn được sao? 

Ôi, ông khách này hỏi bằng thừa! Ông chẳng thấy hai khuôn mặt buồn thiu này hay sao mà hỏi dễ ghét quá. Đấy, rau héo hết, cá sắp ươn, chất đầy cả gian hàng. Thế mà ông hỏi một câu ngu ngơ thật. Tuy nhiên, từ ánh mắt Giuđa lóe lên một tia sáng. Anh nhìn người khách này quen lắm. Chẳng lẽ là ông Giêsu, người đã từng làm cho nước hóa thành rượu ở Cana sao? Trông bộ dạng ông giống như những gì người ta mô tả lắm. Có thể ông sẽ rộng tay mua hết số cá của mình thì sao. Ồ, hay lắm! Mình phải tận dụng để bán hàng chứ đừng vì sĩ diện mà đánh mất cơ hội. Mình đang ế hàng mà… Phải! Phải mời cho ông mua hàng mới được. 

- A, chào ngài Giêsu! Cảm ơn ngài đã hạ mình ghé hàng của em. Xin ngài rộng tay mua giúp em ít hàng. Hôm nay, hàng em ế quá! Ngày cũng sắp tàn rồi... 

- Ôi, anh Giuđa! Sao anh lại biết đến tôi?... Chẳng phải tôi là một khách lạ sao? 

- Vâng, thưa ngài! Chính vì ngài là khách lạ, cho nên em mới biết đến ngài. Chẳng phải ngài đã “biến nước thành rượu ở Cana” sao? Mới nhìn thấy ngài, em đã biết! 

- Tạ ơn Chúa, vì anh đã biết tôi! Ước chi anh sẽ còn được biết những việc vĩ đại của tôi nữa... Thôi, anh dọn hàng và hãy theo tôi. Tôi sẽ làm cho anh trở thành một nhà “kinh doanh Nước Thiên Chúa”. 

- Ôi, tạ ơn ngài! Em chỉ giỏi “bán cá thôi”. Nhưng vì lời ngài, em xin theo ngài! 

Dứt lời, Giuđa đứng dậy dọn hàng, xếp vào quang gánh rồi quẩy đi theo ngài Giêsu. Thấy Giuđa bỏ đi mà chẳng nói với mình lời nào, anh bạn hàng rau tức tối chửi đổng mấy câu nhưng Giuđa chẳng đáp lại lời nào. Hằng ngày, tuy là bán hàng bên cạnh nhau nhưng cả hai hay bốp chát nhau đủ điều. Có khi để cho vui nhưng có khi cãi vã tới bến. Thế mà hôm nay, Giuđa như người bị điếc. Hay là ông khách Giêsu đã hớp mất hồn của Giuđa rồi. Thiệt là chuyện lạ trên đời. Đang yên đang lành, bỗng dưng bỏ tất cả đi theo một người “vô gia cư”. Thế nhưng sự thật là Giuđa đã mời ngài Giêsu về nhà mình, giới thiệu ngài với cả gia đình và mời ngài ở lại dùng bữa. Trong bữa ăn tối hôm ấy, tự nhiên Giuđa tuyên bố với gia đình sẽ đi theo ngài Giêsu để làm việc đại sự. Việc đại sự mà Giuđa và cả nhà hiểu là “đánh đuổi Rôma, giành lấy độc lập và xây dựng lại đất nước Israen”. Biết đâu mọi việc đều thuận lợi và Giuđa sẽ có được một vị trí quan trọng trong triều đình của ngài Giêsu. Chính ngài chứ không ai khác là Đấng Mêsia của Đức Chúa. Thế là cả nhà Giuđa, từ già đến trẻ đều phấn khởi hân hoan đón tiếp ngài Giêsu và sẵn sàng để cho Giuđa lên đường đi làm việc đại sự. Nhìn Giuđa và cả nhà anh ta, ngài Giêsu không khỏi xúc động. Ngài nhận Giuđa làm đồ đệ cùng với lời hứa sẽ biến anh thành một người chuyên “kinh doanh Nước Thiên Chúa”. 

Tối hôm ấy, ngài ở lại dùng bữa và nghỉ lại tại nhà Giuđa. Sáng hôm sau, ngài cùng Giuđa dọn hành lý lên đường. 

2. 

Ngài Giêsu và Giuđa trở lại cùng với mười một môn đệ ở nhà trọ bên bờ biển hồ Galilê. Ở đó, các môn đệ đã dọn sẵn bữa ăn sáng. Gặp lại ngài Giêsu, các môn đệ tỏ vẻ ngạc nhiên khi ngài về cùng với anh bán cá Giuđa. Họ không thể tin được một anh bán cá, hay bốp chát ngoài chợ lại trở thành môn đệ của “Đấng Khôn Ngoan”. Tuy nhiên, cũng như Phêrô, Anrê, Giacôbê, Gioan, những kẻ chài lưới được ngài Giêsu chọn thì có gì lạ khi ngài chọn Giuđa. Biết đâu, anh ta lại giỏi hơn những người đã đến trước thì sao? Đó là một bí mật của ngài Giêsu, chẳng ai có thể hiểu thấu cách chọn người của ngài. 

Ngồi vào bàn ăn, ngài Giêsu giới thiệu Giuđa cho tất cả mọi người. Một sự giới thiệu có vẻ dư thừa, vì ai cũng biết rõ lý lịch của anh. Tuy nhiên, ngài Giêsu vẫn bình thản kể cho mọi người nghe về gia cảnh và vì sao ngài chọn anh. Cuối cùng, ngài mời gọi tất cả mười hai môn đệ của ngài phải biết yêu thương nhau, phục vụ nhau. Tất cả hãy đề cao tinh thần yêu mến Lời Chúa và Lề Luật của Chúa, hầu phục hưng “Nước Chúa”. Ngài Giêsu còn thực hiện một quyết định quan trọng, gây khó hiểu trong nhóm các môn đệ là trao cho Giuđa giữ túi tiền và lo lắng mọi việc thu chi cho cả nhà. Thế là Giuđa bước vào hành trình làm môn đệ của ngài Giêsu với túi tiền treo lủng lẳng bên hông. Một gánh nặng nhưng cũng là một “niềm an ủi”. Bởi từ nay, Giuđa vẫn còn được cảm nếm mùi vị của tiền, đặc biệt là tiền không phải do mình làm ra. Trước kia, Giuđa phải chắt chiu từng đồng để lo lắng cho cả gia đình. Giờ đây, tuy không còn phải hai buổi “ngồi chợ” nhưng Giuđa vẫn có tiền rủng rỉnh trong túi. Tuy là tiền chung nhưng cũng có thể kiếm được chút đỉnh. Dù sao cũng là công mình giữ tiền. Lấy một ít, ai mà biết. Thế đấy, chưa gì mà Giuđa đã có những tính toán kiếm chác từ việc đi theo ngài Giêsu. Âu cũng là một sự hy sinh, từ bỏ cái nhỏ để được cái lớn hơn. 

Sau bữa ăn, ngài Giêsu bảo Phêrô giao túi tiền cho Giuđa. Thế nhưng Phêrô tỏ vẻ không đồng ý. Anh dùng dằng, vì đã quá biết con người Giuđa. Hằng ngày, buôn bán ngoài chợ, Giuđa đã dở những trò bịp bắt chẹt người ta. Lại thêm, hắn là kẻ háo thắng. Khi cãi lộn với người khác, hắn luôn to mồm, không cần biết đúng sai, miễn sao thắng họ là được. Cho nên, Phêrô không ưa hắn. Cái ác cảm trong một lần đến mua cá đã khiến anh liệt hắn vào số những kẻ “không đội trời chung”. Vì thế, khi ngài Giêsu bảo anh giao túi tiền cho hắn, tự nhiên, anh thấy bị xúc phạm. Trong mười một người ở đây, chẳng lẽ không có ai xứng đáng hơn hắn. Hắn là “cái thá” gì ở đây!... Đang khi còn ngập ngừng, xét đoán lung tung về Giuđa, Phêrô nhìn thấy ánh mắt nhắc nhở của ngài Giêsu. “Thế anh là gì mà Thầy đã chọn anh. Anh chất phác nhưng cũng chỉ là một kẻ chài lưới. Thầy đã cho anh cơ hội. Lẽ nào, Thầy lại không được phép cho Giuđa một cơ hội”. Ánh mắt nhắn nhủ ấy đã làm Phêrô giật mình. Anh đưa tay vào lưng quần lấy ra túi tiền đưa cho Giuđa. Thế nhưng lòng anh vẫn còn có chút gì đó e ngại về “kẻ bán cá” này. Vừa lấy xong túi tiền, Giuđa vỗ vai Phêrô cười mãn nguyện. “Cảm ơn anh đã tin tưởng em. Mong rằng, chúng ta sẽ là cộng sự tốt của nhau. Từ đây, em sẽ chăm sóc anh như chăm sóc cha mẹ của em”… Những lời xoa dịu của Giuđa làm Phêrô bớt đi vẻ nghi kỵ. Dù sao, cả hai cũng cùng chung một thầy. Thôi thì cho Giuđa một cơ hội. Điều này chắc chắn đẹp lòng thầy. Phêrô vỗ lại vai của Giuđa kèm theo cái bóp nhẹ như nhắc anh ta phải biết thân biết phận. 

3. 

Giao nhiệm vụ cho Giuđa xong, ngài Giêsu và các môn đệ của mình tiến lên hội đường Galilê để dự buổi cầu nguyện buổi sáng. Tại đây, sau khi đọc Thánh Vịnh, mọi người lần lượt tiến lên bỏ tiền dâng cúng vào thùng. Ngài Giêsu ngồi đối diện thùng tiền và quan sát từng người. Có kẻ giàu người nghèo, không ai là không rộng tay dâng cúng. Thế nhưng ngài Giêsu chỉ để ý đến bà XiPhong, một bà góa nghèo, ở gần chợ BinhTan. Chồng bà mất sớm vì chiến tranh, để lại hai người con nhỏ. Hằng ngày, bà phải lam lũ ngoài chợ làm bất cứ việc gì người ta mướn. Thế mà nhà bà vẫn chẳng đủ ăn. Hôm nay, bà lấy ra hai đồng tiền kẽm bỏ vào thùng như bỏ cả một gia tài (x.Mt 12, 41-44). Thế mà chẳng ai để ý đến. Ngài Giêsu nhìn bà rồi nhìn các môn đệ. Ngài hỏi: 

- Các con xem! Trong những người bỏ tiền vào thùng, ai là người bỏ nhiều hơn hết? 

Giuđa nhanh nhảu: 

- Dạ, thưa Thầy! Thầy coi có biết bao người giàu bỏ tiền vào thùng. Họ thật rộng tay! 

- Con nghĩ thế sao Giuđa? Con đúng là “kẻ bán buôn”, chỉ biết nhìn thấy tiền. 

Nghe thầy nói, Giuđa lặng thinh, vì chẳng thể hiểu ý của thầy là gì. Người ta rộng tay bỏ tiền vào thùng thì tốt chứ sao thầy lại “trách” mình. Thầy đang có ý gì đây? Chẳng phải công cuộc phục hưng “Nước Chúa” cần phải có tiền sao? Thầy là “lãnh tụ”, chẳng lẽ thầy không hiểu ngân khố cần như thế nào cho một quốc gia. Hay là mình đã lầm khi đi theo vị thầy này?... Như hiểu được lòng trí của Giuđa, thầy Giêsu gọi. 

- Giuđa, Giuđa! Con đang nghĩ gì thế? Chẳng lẽ “cơm áo gạo tiền” không lìa xa con được sao?... Con hãy trông bà góa nghèo kia. Bà đã bỏ vào thùng tất cả gia sản của mình, cùng với những hy sinh vất vả. Đồng tiền của bà chẳng phải đáng quý trọng hơn sao? Còn những người giàu có kia chỉ bỏ vào thùng những đồng dư cắc thừa của mình mà thôi. Số tiền lớn nhưng chưa chắc tấm lòng của họ lớn bằng tấm lòng của bà góa này… Đi theo thầy, con phải từ bỏ nhiều hơn! Con có hiểu không Giuđa?... 

Giuđa bỗng giật mình, tỉnh giấc “chiêm bao” giữa ban ngày. Anh đang xét đoán thầy mà chính thầy đã thấu tỏ lòng anh. Anh xụ nét mặt, có vẻ không ưng bụng lời sửa dạy của thầy. Thì ra thầy cũng như các hiền triết, chỉ truy tìm những gì cao siêu trên trời chứ chẳng quan tâm đến những gì trước mặt. Thôi, lỡ theo rồi, phải theo cho đến cùng xem sao. Chẳng lẽ mình lại vác mặt không trở về nhà. Nghĩ thấu đáo đâu đó, Giuđa thưa “dạ” rồi cùng thầy và các môn đệ đi đến làng Bêtania. 

4. 

Tại Bêtania, ngài Giêsu và các môn đệ vào trọ trong nhà của chị em Macta, Maria và Lazarô. Tại đây, trong bữa ăn, cô Maria lấy một cân dầu thơm cam tùng hảo hạng mà xức chân Chúa. Cô lại lấy tóc mình mà lau. Mùi thơm sực nức cả căn phòng (x. Mc 14,3-9). Tự nhiên, Giuđa buột miệng. 

- Ôi, sao lại phí dầu thơm như thế! Dầu này có thể bán được ba trăm đồng bạc để bố thí cho kẻ nghèo... (Mc 14,4) 

Chưa nói dứt lời, Giuđa đã bị thầy răn dạy. 

- Giuđa, con thực sự lo lắng cho người nghèo sao? Ừ, lòng tốt của con sẽ được Thiên Chúa trả công. Nhưng con cần biết là sẽ đến ngày thầy không còn ở với con. Còn người nghèo của Thiên Chúa thì luôn bên cạnh con. Lúc ấy, thầy sợ rằng, con sẽ quên họ. Còn bây giờ, con hãy để yên cho chị ấy làm. Vì dấu chị làm là để chuẩn bị cho ngày liệm xác thầy. Con có hiểu không?... 

Nghe thầy nói, cả Giuđa và các môn đệ kia cũng chẳng hiểu gì. Đầu óc họ còn u tối. Thôi thì thầy dạy sao nghe vậy. Nhưng tội cho Giuđa, vì thật lòng mà một lần anh nữa bị thầy khiển trách. Cho nên, Giuđa có vẻ chột dạ. Cả bữa tiệc hôm đó, anh không còn nói năng gì nữa, cứ cúi đầu ăn cho xong rồi âm thầm đi ra ngoài. 

Giuđa bước ra ngoài, trời đã tối. Sương đêm xuống rất dày, gió hiu hiu và lạnh. Giuđa đến ngồi dưới gốc cây vả trước nhà, tựa người vào gốc cây. Lòng anh man mác một nỗi buồn và hụt hẫng. Buồn vì nhớ gia đình, hụt hẫng vì vị thầy Giêsu không giống như anh nghĩ. Kể từ ngày ra đi đến nay, anh chưa thấy thầy hành động gì khác ngoài việc đi đây đó rao giảng về một Nước Trời viễn vông. Nước Trời làm sao thực tế bằng chén cơm manh áo của biết bao đồng bào đang sống trong cảnh nô lệ Rôma. Đồng ý là thầy có nhiều “phép thuật”, có thể chữa cho người què đi được, người mù thấy được, người câm nói được, kẻ chết sống lại… và hóa bánh cho năm ngàn người ăn. Tuy nhiên, bấy nhiêu đó chưa đủ để gây dựng lại đất nước Israen. Tại sao thầy mình không làm những chuyện vĩ đại hơn. Hay là thầy cần có một áp lực thật sự để thi triển phép thuật. Đúng rồi, chẳng phải thầy chỉ làm phép khi có người xin hay có một chuyện khó khăn nào đó. Mình phải làm một điều gì đó, nếu không thì công cuộc đi theo thầy của mình sẽ thất bại, rồi mình lại về nhà bán cá thôi. Đang còn suy nghĩ mông lung thì Phêrô ra gọi Giuđa vào, vì bữa tiệc chưa tàn. Giuđa đứng dậy đi theo Phêrô vào trong nhưng đầu óc anh vẫn tính toán một điều gì đó chưa rõ ràng. 

5. 

Năm thứ ba trong hành trình đi theo thầy Giêsu rao giảng Tin Mừng Nước Trời, Giuđa vẫn không thấy thầy đả động gì đến việc tranh đấu giành lại độc lập dân tộc. Trong khi đó, đế quốc Rôma càng ngày càng đặt thêm những gánh nặng lên vai người dân. Giuđa thấy bức xúc vô cùng nhưng chẳng dám nói cho ai biết. Giuđa âm thầm lên kế hoạch buộc thầy phải chứng tỏ cho mọi người thấy khả năng của ngài nhưng chưa có cơ hội. Ba năm theo thầy, chứng kiến biết bao việc lạ lùng thầy làm, Giuđa tin chắc chắn thầy sẽ hành động nếu như bị thúc bách. Thế là trong lần lên Giêrusalem này, Giuđa đã đi gặp các thượng tế và thủ lãnh vào ban đêm. 

Giuđa đến dinh thượng tế Caipha, nơi ông đang hội họp với nhiều thủ lãnh trong dân bàn cách xử lý thầy Giêsu. Trong khi họ đang bàn tính thì một người lính dẫn Giuđa vào. 

- Thưa các ngài! Có môn đệ của Giêsu muốn gặp các ngài. 

- Được… Cho hắn vào! 

Giuđa rón rén bước vào cửa phòng họp, cúi đầu chào tất cả rồi nhỏ nhẹ. 

- Thưa quý ngài! Tôi là Giuđa, môn đệ của Giêsu. Tôi xin bàn với quý ngài một kế hoạch. 

- Nào anh Giuđa, nói mau… Anh đem cho chúng tôi tin tốt gì đây? 

- Thưa quý ngài! Tôi sẽ nộp Giêsu cho quý ngài nhưng quý ngài cho tôi bao nhiêu nào? (x. Mt 26, 14-16). 

Có lẽ, chưa bao giờ Giuđa lại nhỏ nhẹ và khiêm nhường đến thế. Ngày trước, lúc còn bán cá ở chợ BinhTan, anh hay thách giá trên trời. Ai không mua thì thôi. Thế mà hôm nay, anh lại đi năn nỉ người ta mua thầy Giêsu của mình như một người bán cá ế. Thầy Giêsu quyền năng khả kính chứ đâu phải mớ cá. Anh đã lầm khi đặt thầy của mình ngang hàng với những món hàng người ta buôn bán ngoài chợ. Phải chăng anh đang nổi máu “kinh doanh” hay là vì anh bất mãn thầy của mình. Có lẽ cả hai lý do ấy đã khiến anh đi đến quyết định bán thầy. 

Sau khi bàn hỏi kỹ lưỡng, họ quyết định. 

- Để xem nào? Giêsu là tên phản tặc. Hắn chỉ đáng giá một tên nô lệ thôi!... Chúng tôi quyết định cho anh ba mươi đồng bạc. Tiền đây! Anh có nhận không?... 

Giuđa khúm núm đưa tay nhận ngay. Bởi vì anh vừa được tiền vừa có thể lừa họ. Anh nghĩ: Chẳng lẽ thầy của mình để cho họ bắt sao? Thầy là bậc anh hùng đầy quyền phép. Chắc chắn thầy sẽ thoát khỏi tay họ và mình sẽ là người có công vì đem lại cho ngân quỹ một khoản tiền. Tuy nhiên, điều anh không thể ngờ được là anh đã đẩy thầy của mình vào một cuộc khổ nạn chưa từng có trong lịch sử Israen. 

6. 

Về đến nhà, Giuđa vui vẻ bước vào bàn ăn cùng với thầy Giêsu và các môn đệ. Giuđa ngồi ăn ngon lành. Trong suốt hành trình đi theo thầy Giêsu, chưa bao giờ, anh ăn ngon đến thế. Anh vui vẻ lấy thức ăn cho thầy, cho các anh em mà chẳng biết đây là bữa tiệc cuối cùng các thầy trò ăn với nhau. Vào giữa bữa ăn, thầy Giêsu tiên báo có một người trong các môn đệ của ngài sẽ nộp ngài. Nghe lời ấy, các môn đệ xôn xao. Ai cũng cố hỏi: “Có phải con không?”. Thầy Giêsu thinh lặng đôi chút, nước mắt trào ra. Ngài cầm lấy bánh chấm gia vị rồi trao cho Giuđa. Giuđa ngỡ ngàng trước cử chỉ của thầy. Chưa kịp nói gì, lại nghe thầy phán: “Này Giuđa, chính con sẽ nộp thầy! Nào, con đã chuẩn bị gì thì cứ làm đi. Giờ của thầy đã đến!”. Nghe xong câu ấy, tự nhiên Giuđa đứng dậy, vứt miếng bánh xuống đất, rồi đi ra ngoài. Bây giờ là đêm tối. (x. Ga 13, 21-30). Thầy Giêsu quay lại bảo các môn đệ. 

- Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của thầy! Đứng lên! Chúng ta cùng tiến vào “cuộc thương khó” Cha thầy đã dành sẵn cho thầy. Kìa, kẻ thù thầy sắp hành động. Anh em hãy cùng thầy vào vườn Giêtsêmani cầu nguyện, kẻo sa chước cám dỗ. Đi nhanh nào... 

Giuđa đã biết chỗ thầy Giêsu và các môn đệ thường tụ họp cầu nguyện vào ban đêm. Cho nên, anh dẫn đoàn quân đền thờ tiến vào vườn tìm bắt thầy Giêsu. Họ đến với đèn đuốc, gươm giáo, gậy gộc như đi bắt một tên cướp. Đến nơi, Giuđa tiến lên hôn lên má thầy Giêsu. Lập tức, quân lính đổ xô đến bắt thầy Giêsu. Tuy nhiên, trước những lời nói mạnh bạo của thầy, tất cả ngã rạp xuống đất hai lần. Đến lần thứ ba, chúng mới lấy lại tinh thần và nhào vô bắt trói thầy giải đi. Khi ấy, cả Giuđa và các môn đệ đều bất ngờ. Tại sao thầy của mình lại để cho họ bắt một cách dễ dàng như thế. Họ đâm hoảng và bỏ chạy tán loạn. Giuđa cũng bỏ chạy, vừa chạy vừa thất vọng khóc lóc. (x. Ga 18, 1-11). 

Sau đó, vì vụ án của thầy Giêsu càng ngày càng xấu mà chẳng thấy thầy phản ứng gì hết, Giuđa mới hối hận khôn xiết. Anh biết chắc chắn thầy mình sẽ phải chết nên tức tưởi chạy đến dinh Caipha ném trả ba mươi đồng bạc cho họ. Anh thốt lên trước mặt họ rằng: “Tôi đã phạm tội nộp người vô tội khiến người phải chết oan” (Mt 27, 4a). Nhưng họ đáp lại: “Chuyện đó can gì đến chúng tôi! Mặc kệ anh!” (Mt 27, 4b). Thế là Giuđa bỏ chạy ra ngoài, đến bên gốc cây sung ở ngoài đồng mà treo cổ tự vẫn. 

* * * 

Mặt trời đã lặn hẳn. Bóng tối bao trùm khắp nơi. Gió thổi mạnh hơn. Bầy quạ đen bay lượn trên trời kêu lên những tiếng ghê rợn… Giuđa mở mắt nhìn thành Giêrusalem lần nữa rồi nhắm mắt đưa chân. Tảng đá ngã lăn, cả thân người Giuđa treo tòn teng. Trong chốc lát, Giuđa chỉ kịp hả miệng kêu lên một tiếng nhỏ, lè lưỡi, hai chân cựa quậy một lúc rồi ngoẹo đầu tắt thở. Như thế là kết thúc cuộc đời một “kẻ bán cá”. Và liệu trên cuộc đời này có còn “kẻ bán cá” nào nữa không?...


BÉ CẦU NGUYỆN BUỔI SÁNG


Bướm vàng đùa giỡn cành bông
Lá cờ dưới ánh nắng hồng tung bay
Gió lay động từng ngọn cây
Từng đàn em nhỏ hăng say đến trường
Muôn màu muôn sắc trên đường
Cùng nhau tụ dưới mái trường thân yêu
Các Dì nhắn nhủ đôi điều
Hãy năng cầu nguyện, dâng nhiều ước mơ
 
Những lời nguyện rất ngây thơ
Xin cho cha mẹ, các cô, các dì
Được nhiều ơn Chúa từ bi
Ban cho sức khỏe, bước đi vững vàng
Xin cho bé học dễ dàng
Những lời cô dạy, mở mang con người
Xin cho con được vui tươi
Củng đua học với những người bạn thân
Xin cho bảo mẫu, công nhân
Cùng bác bảo vệ hồng ân được nhiều
Chúng con xin Chúa đủ điều
Cảm tạ Thiên Chúa mến yêu nhân từ

Bs Tự

ĐƯỜNG CHÍNH NGHĨA 



(Mã số: 18-125)

Cơn gió bấc thổi mạnh, xô cánh cửa nhà nguyện dập ra dập vào nghe chát tai. Chánh lật đật chạy từ căn nhà bếp ra nhà nguyện để đóng cánh cửa. “Chà, sắp mưa rồi đó!”. Tụi nhỏ đang chơi trước sân nhà nguyện thấy trời sắp mưa liền chạy về tán loạn, kêu réo inh ỏi như giặc sắp đến. Chánh nhặt từng lá bài mà tụi nhỏ hất văng tứ tung, chậc lưỡi: “Giới trẻ mà lao vào trò này thì hỏng hết!”. Anh nhớ lại một thời sống chết với những là bài này. 

* * * 

Khắp Sài thành, phàm là dân chuyên đánh bài đều biết đến tên anh: Chín Sảnh. Thật ra anh tên là Chánh. Cha mẹ mất sớm, anh ở với ông Dượng. Suốt ngày anh cứ lông nhông ngoài đường, sáng xỉn chiều say nên tên anh gọi là Chánh Xỉn. Về sau, khi bước chân vào con đường cờ bạc, đàn em của anh đã đổi biệt hiệu cho đại ca thành Chín Sảnh, vừa có nghĩa là tay tốt bài, vừa có nghĩa là nhà cửa của anh có tới chín căn lận. Anh lấy làm khoái chí, khen đàn em có óc sáng tạo. 
Có được tiền đồ như ngày hôm nay, anh đã nhờ vào mấy ngón bài mà anh đã học được, cùng với vận may giúp anh dần dần trở thành chủ của một sòng bài. Theo cái nghề này thì làm ăn nhanh có, nhưng bại sản có thể trong một sớm một chiều nếu không biết cách bám trụ. “Nhân nhượng với đối thủ là tàn nhẫn với bản thân”, anh vẫn thường dạy cho đàn em bài học đó. Cho nên anh tìm cách loại trừ dần những sòng bài khác cạnh tranh việc làm ăn với anh. Muốn yên với chính quyền, anh cũng “đi đêm” với các sếp lớn, nhờ đó công việc làm ăn của anh được ổn định và địa bàn ngày càng mở rộng ra. 

Nghĩa là em kết nghĩa của anh, theo anh từ những ngày đầu anh chinh chiến ở đất Sài thành. Anh coi nó như đứa em ruột của mình, cùng nhau vào sinh ra tử mấy lần. 

- Nghĩa, em phải mạnh mẽ hơn nữa... Có thế mới làm ăn lớn được. 

Anh la mắng nó trước mặt đám đàn em của anh. Chuyện là mới đây, có một ông Tây là thành viên trong hội đồng quản trị Casinô tại bang Las Vegas đến Sài Gòn để mở sòng bài. Nghĩa được anh sai đến để dằn mặt ông ta và yêu cầu ông hoặc sáp nhập vào tập đoàn Chín Sảnh hoặc là rút về nước. Khổ nỗi là ông ta chẳng chịu và thách thức sẽ nhờ chính quyền can thiệp. Thế là Nghĩa cùng đám đàn em kéo về, trình chuyện cho anh biết. 

- Hắn là tên ngoại quốc, chân ướt chân ráo vào địa bàn của mình. Sao em không san bằng chỗ đó đi...  

Nghĩa cúi đầu đứng tần ngần trước mặt anh, mặc cho anh quở trách. 

- Em theo anh chinh chiến biết bao năm, mà sao em không hiểu, nhân nhượng với đối thủ là tàn nhẫn với bản thân. Em biết không? 

Nghĩa vẫn đứng im bất động, nhưng trong lòng nó máu nóng đang sôi sục lên. Nó đi ra ngoài khi trời còn đang tối. 

* * * 

Anh đang đứng tại quầy đổi trả tiền trong một sòng bài mới mở. Đột nhiên, đàn em chạy vào báo cho anh hay cảnh sát đang tới. Vừa nghe dứt câu thì cảnh sát đã ập vào, phong tỏa hết các lối ra vào của sòng bài. Một anh cảnh sát đeo huy hiệu hai vạch giơ khẩu súng lục bắn chỉ thiên. Tất cả mọi người đều bị dồn vào trong một góc tường. Anh cảnh sát vừa nói vừa rút ra tờ giấy trong túi áo khoác: 

- Anh Chín Sảnh, anh đã bị bắt về tội mở sòng bài trái phép, cho vay nặng lãi và tổ chức đánh người gây thương tích. 

Anh xòe xòe những lá bài trên tay, giọng thản nhiên: 

- Thế à, muốn bắt tôi sao? 

Nói chưa hết câu, anh phóng những lá bài xoáy thẳng về phía anh cảnh sát, anh ta nghiêng người né tránh. Nhanh như cắt, Chín Sảnh tung những thế võ, nhảy phía này, lao về phía kia, tung một cước, tấm kiếng cửa sổ vỡ toang, anh lao ra ngoài. Anh chặn một chiếc taxi, đuổi tài xế xuống rồi cướp xe. Anh nghĩ ngay đến người vợ nên lái xe chạy thẳng về nhà. Chiếc taxi lao vùn vụt trong đêm tối. Anh cố tâm suy nghĩ lý do mình bị khởi tố. “Mình đã cẩn thận lo lót cho chúng hết rồi mà?”… Vừa về tới nhà, anh lao thẳng lên lầu trên, giục vợ thu dọn nhanh giấy tờ và tiền bạc, rồi lên xe, phóng thẳng ra xa lộ hướng về phi trường. Vợ anh không ngớt hốt hoảng và liên tục hỏi anh chuyện gì đã xảy ra. Nhìn khuôn mặt xinh xắn mắt ngấn lệ, lòng anh không khỏi xót xa. 

- Anh đang bị bọn cảnh sát truy bắt. 

Anh cưới nàng khi đang trên đỉnh cao của sự nghiệp. Anh thích nàng không chỉ nhờ sự duyên dáng nhưng vì nàng nhìn anh bằng ánh mắt khác, không phải ánh mắt giả tạo như những đứa con gái khác. Ánh mắt chứa đựng đầy tình thương. Nàng yêu anh vì trực giác nhắc bảo cho nàng thấy một tâm hồn hiền lành ẩn bên trong dáng vẻ đại ca bề ngoài. Nhiều lần nàng thuyết phục anh từ bỏ con đường cờ bạc để làm ăn chân chính nhưng anh cứ an ủi nàng sẽ chẳng xảy ra chuyện gì đâu, anh đã tính hết rồi. Chiếc xe chạy băng băng trên xa lộ, khiến các cột đèn hai bên cứ lùi dần về phía sau. Khi taxi đang chạy trên cầu, bất ngờ một chiếc container chạy ngược chiều, lấn sang làn đường của anh, hất xe của anh đâm vào thành cầu, rơi xuống dòng sông đang chảy xiết. Trong phút chốc, anh đã kịp nhìn thấy khuôn mặt của người trên chiếc container. Đó chính là Nghĩa. 

Chiếc xe dần chìm xuống nước. Đầu óc anh vừa tỉnh lại sau cú va đập, liền chòm người sang vợ. Anh nắm bàn tay mềm nhũn của vợ cố gắng kéo ra khỏi chiếc xe đang chìm. Một tay ôm vợ, tay còn lại lấy hết sức bình sinh mà bơi vào bờ, miệng kêu gọi vợ thảm thiết. Dưới ánh đèn lờ mờ bên đường, anh thấy máu đang chảy loang trên đầu vợ, khuôn mặt tái nhợt. Anh cố gắng sơ cấp cứu nhưng chẳng thể làm cho vợ anh tỉnh dậy. Anh ôm vợ chạy ra phía đường cái để nhờ xe đưa đi cấp cứu, anh gọi hai ba chiếc nhưng chẳng có xe nào dừng lại đón anh. Anh đau đớn, kêu gào, chửi bới, chửi cả trời, cả đất, cả cái thằng mà anh coi như là đứa em ruột của mình. Tiếng khóc than của anh nghe não nùng xé nát cả một vùng trời đêm. 

Sau khi lo việc an táng cách kín đáo cho vợ xong. Anh nghĩ cách báo thù cái thằng em kết nghĩa của anh. Lòng căm phẫn trước cái chết của người vợ và trước tiền đồ mà mình đã cất công gầy dựng, không ngờ lại bị chính thằng em của mình đâm từ phía sau lưng. Anh bí mật dò la tin tức thì được biết Nghĩa đã cộng tác với ông Tây ngày trước. Ông ta thỏa thuận với Nghĩa nếu giúp ông triệt hạ Chín Sảnh thì ông sẽ giúp Nghĩa lên nắm toàn bộ sản nghiệp của Chín Sảnh. Một sự hợp tác đôi bên cùng có lợi. Giờ anh vẫn đang bị công an truy tìm gắt gao nên tạm thời lẩn trốn, chờ dịp báo thù. 

* * * 

Anh bỏ trốn, bôn ba khắp nơi, cuối cùng dừng chân ở vùng đồi núi gần Đà Lạt. Anh xin ở lại tại một đan viện. Đó là đan viện xitô Châu Sơn. Đan viện là một nơi dành cho các đan sĩ muốn dâng hiến cuộc đời mình cho Chúa. Các đan sĩ không hoặc tham gia rất ít vào những chuyện ngoài đời. Thời gian của họ trong một ngày được phân ra rất đều: Tám giờ cầu nguyện, tám giờ làm việc và tám giờ ghỉ ngơi. Nơi đây cách xa cuộc sống ồn ào bên ngoài, xung quanh rất vắng vẻ, bao bọc bởi đồi núi, sông hồ, rất thích hợp cho việc lẩn trốn. Mọi người ở đây đều là nhưng người tu sĩ đơn sơ, thật thà, là nơi anh có thể tin tưởng lánh nạn. Anh năn nỉ một vị linh mục già để xin được ở lại. Anh hứa sẽ siêng năng làm mọi công việc ở đây. Đúng ra là chẳng được nhận ai vào đây ở nếu người đó không có ý định đi tu. Nhưng nhìn bộ dạng lấm lem, tất tưởi của anh, vị linh mục động lòng thương cho anh tá túc nghỉ ngơi vài hôm. 

Mặt nước phẳng lì, gợi sóng mỗi khi có chiếc lá của cây bàng bên bờ hồ rơi xuống. Từng cơn gió luồn qua hai hàng phi lao khiến lá kêu xào xạc. Anh ngồi nơi chiếc ghế đá bên bờ hồ. Tâm hồn anh lúc này cũng động như mặt nước, như cành cây kia rung lên mỗi khi gặp gió. Mấy năm trời bôn ba gầy dựng sự nghiệp cuối cùng đều đổ xuống sông xuống biển. Lòng oán hận nổi lên mỗi khi anh nhớ lại khuôn mặt tái nhợt đầy máu của vợ, nhớ lại khuôn mặt của hắn. Anh ghì chặt hòn đá trên tay ném mạnh xuống mặt hồ, sóng gợn mạnh. Vị cha già đến bên anh lúc nào không hay. 

- Nhiều người tới đây để tĩnh tâm, tìm lại sự bình an trong tâm hồn. Thiên nhiên do tay Chúa sáng tạo sẽ mang đến sự bình an đó. 

Anh nhìn vị linh mục già, mái đầu bạc trắng nhưng da dẻ vẫn hồng hào. 

- Dạ, thưa cha… Con mong tìm lại được sự bình an. 

Anh nài nỉ vị linh mục cho anh được ở lại đây. Những công việc hằng ngày tưới cây, quét dọn, chăn nuôi đối với anh chẳng nhọc gì. Mà anh lại thấy vui từ những công việc đó. Anh từng lăn lộn trên giang hồ nhiều, lời nói đối với anh chỉ là gió bay, nhưng trước mặt vị linh mục đơn sơ này, anh chẳng giấu diếm gì, đem toàn bộ chuyện đời mình kể cho linh mục nghe từ lúc bước vào chốn giang hồ cho tới cái chết của vợ anh, cả việc anh đang bị công an truy tìm. Vị linh mục trầm ngâm giây lát rồi khẽ gật đầu, đồng ý cho anh ở lại, nhưng với điều kiện: 

- Anh hãy chú tâm làm theo tiếng lương tâm mách bảo. 

Anh lặp lại mấy từ: 

- Lương tâm à! 

Vị linh mục khẽ cười: 

- Đó là điều kiện duy nhất để anh được ở đây. Hãy nghe theo tiếng lương tâm của mình. 

“Lương tâm… Làm sao để nghe được tiếng của lương tâm?”. Anh ngồi tĩnh tọa trên tảng đá phẳng bên một cây sao cổ thụ. Anh chẳng nghe thấy tiếng gì ngoài mấy tiếng lá xào xạc và tiếng ve cứ rít lên từng hồi. Trước kia nhiều người cũng nói với anh rằng: “Mầy là đồ vô lương tâm” hay “Ông sẽ bị lương tâm cắn rứt”. Anh có thấy bị gì cắn rứt đâu. Có hay không có lương tâm thì người ta vẫn sống được mà. “Xem ra điều kiện của vị linh mục già đưa ra khó quá!”. Anh còn đang nghĩ ngợi thì một thầy đang xách giỏ cá đi ngang qua, anh gọi lại hỏi: 

- Thầy ơi cho hỏi, thầy có lương tâm không? 

Ông thầy ngơ ngác, đỏ mặt tía tai tưởng mình đã làm sai chuyện gì. Sau một hồi nghe anh giải thích, thanh minh về cái vấn đề hóc búa mà anh đang gặp phải, thầy đó cười và cho anh câu trả lời: 

- Lương tâm là tiếng Chúa ở trong lòng. Nó không phải là tiếng của dục vọng. Nếu anh nghe theo tiếng lương tâm, anh sẽ được bình an, không phải hối hận hay bất an điều gì. 

Anh thầm nghĩ: “Mình còn nhiều điều hối hận và bất an. Chắc là chưa nghe theo tiếng nói của lương tâm rồi”. Anh nghe vọng lại từ phía nhà nguyện xa xa lời bài hát trong giờ kinh chiều của các thầy: 

“Lạy Chúa từ nhân, xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người. 
Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa”. (*) 

* * * 

Đã mấy năm đã trôi qua, anh dần dần trở thành một thành viên của đan viện này. Mọi người đều xem anh như anh em trong nhà, chẳng câu nệ việc anh có đi tu hay không, cả đến việc anh có chịu theo đạo hay không. Bầu khí linh thiêng trong đan viện này giúp anh hồi tâm nhìn lại những chuyện đã xảy ra trong đời mình, những sóng gió, những bước chân lầm lạc. Anh tham gia mọi việc cùng với các thầy, từ việc đồng áng, đào ao thả cá đến việc làm chặng Đàng Thánh Giá bọc hết cả một ngọn đồi. Anh cảm nhận được sự bình an từ những việc làm chân tay, từ đời sống huynh đệ ở đây. 

Một ngày nọ anh đã bày tỏ với vị cha già khả kính ước muốn theo đạo của anh. Bởi lẽ trong những năm qua, anh cũng kiên trì tìm hiểu về đạo, đạo có gì thu hút mà khiến cho hơn trăm người ở đây rời bỏ gia đình, từ bỏ đời sống hôn nhân, chấp nhận bị “ế” cho tới già để ở cái nơi khỉ ho cò gáy này. Anh được một thầy đặc trách dạy về những điều căn bản trong đạo Chúa. Anh đã biết Chúa, anh đã biết Mẹ Maria từ ngày đó. Anh ngập ngừng trước câu hỏi của vị linh mục: 

- Con có hứa từ bỏ tội lỗi không? 

Đợi hồi không thấy anh trả lời, vị linh mục hỏi lại một lần nữa. Anh mới nói: 

- Dạ chưa, thưa cha! Con vẫn không thể nào bỏ qua việc báo thù người đã hại con. Con không thể tha thứ cho nó được. 

Anh bỏ ra ngoài khi nghi thức Rửa tội còn dang dở. Nhìn bề ngoài thấy anh cười nói, vui vẻ với mọi người, nhưng nhiều đêm hình ảnh người vợ đã mất lại hiện về và khuôn mặt của hắn khiến anh tỉnh giấc. Nghe văng vẳng từ nhà nguyện các thầy đang chầu Chúa đêm khuya: 

“Lạy Chúa, xin hãy dạy con, tìm an ủi người hơn được người ủi an. 
Tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết 
Tìm yêu mến người hơn được người mến yêu.” (*) 

Những câu kinh nguyện dập dìu lúc to lúc nhỏ theo cơn gió lại đưa anh vào giấc ngủ yên lành. 

* * * 

Những đám mây đen từ cuối chân trời cứ ùn ùn kéo đến. Tiếng sấm nổ ầm ầm bên ngoài chen lẫn vào lời kinh nguyện của vị linh mục già đang dâng thánh lễ. Bỗng nhiên, hai tiếng nổ vang lên nghe rất gần bên tai. Cả cộng đoàn đang dâng thánh lễ nhìn xuống phía cuối nhà thờ thì thấy một nhóm người hớt ha hớt hải, tay cầm súng, miệng quát lớn: 

- Tất cả ngồi xuống. Không được cử động! 

Hắn cầm khẩu súng lục bắn tiếp hai phát chỉ thiên rồi lao nhanh lên cung thánh, một tay nắm cổ áo lễ của vị linh mục, một tay dí súng vào đầu linh mục. 

- Ai động đậy, tao bắn. 

Dưới ánh đèn trên cung thánh, khuôn mặt hắn hiện ra. Chính là hắn. Chính là Nghĩa, thằng em kết nghĩa của anh. Trong đầu anh hiện lên biết bao câu hỏi. Anh chẳng có nhiều giây để suy nghĩ cho ra chuyện, anh ung dung bước lên cung thánh. 

- Có chuyện gì với em tôi thế này? 

Nhìn thấy anh, hắn tỏ lộ thất thần. Tay cầm súng rung rung. 

- Sao anh lại ở đây? 

Mấy tên đàn em của hắn đang uy hiếp các thầy ở phía dưới thấy anh xuất hiện cũng mất bình tĩnh, miệng gọi đại ca ríu rít. Đàn em của hắn đa phần là thuộc hạ ngày trước của anh, chỉ nghe nói chuyện anh bị cảnh sát bao vây, rồi bỏ trốn chứ chẳng hay biết chi nội tình bên trong. Đại ca Chín Sảnh không còn thì em đại ca là Sáu Nghĩa lên thay. Trên dưới một lòng đều nghe theo sự chỉ bảo của Sáu Nghĩa. Sau nhiều năm hợp tác với ông Tây, sòng bài của ông ta ngày một lớn mạnh và cạnh tranh với sòng bài của Sáu Nghĩa. Rồi một hôm, mấy chiếc xe cảnh sát vây bắt Sáu Nghĩa khiến hắn phải chạy trốn thục mạng cho tới chân trời này. Sau giây phút bất ngờ, Nghĩa trừng trừng nhìn anh: 

- Anh, tụi em nhớ anh lắm đó… Sao anh lại chôn thân ở cái nơi quê mùa này? Đại ca Chín Sảnh một thời lừng danh đâu rồi? 

- Em thả linh mục ra đi. Ông ta cũng sắp về chầu Chúa rồi. Có gì nói chuyện với anh. 

Hắn thả vị linh mục ra rồi tiến về phía anh. Anh đang ngoảnh nhìn linh mục già chạy về phía các thầy ở đầu băng ghế ngồi, hắn bất ngờ xoay người đá ngay vào mặt anh khiến anh ngã quỵ: 

- Đứng lên anh, anh dạy em là phải mạnh mẽ lên mà. Đứng lên... 

Hắn nghiêm giọng hét lớn, khi thấy anh lồm ngồm bò dậy, hắn bồi thêm một đá vào gáy của anh khiến đầu anh đập xuống nền nhà. Hắn mỉa giọng: 

- Nhân nhượng với đối thủ là tàn nhẫn đối với bản thân... Anh từng dạy tụi em như thế mà! 

Vừa nói vừa quay xuống phía các đàn em đang đứng. Tụi đàn em bất ngờ sau lần gặp lại đại ca cũ, giờ thấy đại ca mới đang xử đại ca cũ, tụi nó ngập ngừng chẳng biết nghe theo ai. Cứ đứng như trời trồng. Anh cũng gượng đứng lên: 

- Đều là do lỗi của anh cả. Là do anh dạy em nên em mới thành ra như thế này. 

Hắn ngẩng mặt cười nhạo. 

- Vâng, xin cảm ơn lòng tốt của anh. Cả sự nghiệp của anh giờ đã thuộc về em rồi. Kẻ nào mạnh thì chiến thắng. 

Hắn còn đang cười thì thình lình những lá bài từ đâu phóng tới, làm hắn nghiêng người tránh đỡ. Đó là những là bài mà hồi chiều anh nhặt ở trước sân nhà nguyện từ lũ nhỏ. Anh lao đến giựt lấy khẩu súng trong tay hắn. Nếu là ngày trước thì hắn chẳng phải là đối thủ của anh. Hai bên mãi giằng co trên cung thánh, làm các thầy và cả đàn em của hắn cũng muốn rớt tim ra ngoài. Bất ngờ, phía trong phòng thánh, bóng một người đồng phục xanh lá đang giương súng. Anh vừa kịp xoay người hất hắn ra. Một tiếng súng nổ, anh từ từ quỵ xuống, tay vẫn đang ghì chặt khẩu súng với hắn. Hắn toát mồ hôi trán, thất thần khi thấy máu ướt cả một vùng áo trước ngực anh. Anh công an kinh ngạc khi viên đạn xuyên trúng anh. Thấy anh công an đang thất thần trong phòng thánh, hắn giật mạnh súng định phản đòn, nhưng không tài nào rút súng ra khỏi tay của anh. Anh gào thét lên: 

- Là lỗi của anh, Nghĩa ơi, là lỗi của anh. 

Nói xong anh bóp mạnh cò súng, nòng súng đang quay về phía anh. Người ta nghe thấy ba tiếng súng nổ nữa cho tới khi nghe những tiếng lách cách bởi hết đạn. Anh ngã quỵ, nằm dài trên nền nhà. Hắn không tin vào những gì đang thấy trước mắt mình, đôi tay rung rung, khẩu súng rơi xuống nền. Hắn quỳ xuống trước anh, có giọt nước mắt trong khóe mi hắn: 

- Tại sao... Tại sao anh làm như vậy? 

Anh rán gượng nói: 

- Lương tâm bảo anh... là do lỗi của anh. 

Hắn cười to, rồi hắn lại khóc lóc thảm thiết: 

- Tại sao... tại sao... 

Hắn gào lên ai oán vang cả ngôi nhà nguyện dưới trời mưa tầm tã. Ngoài trời sấm chớp vẫn vang rền, gió ào ạt lùa vào qua các cánh cửa. Mọi người đều khóc, có cả mấy đàn em của hắn. Giọng anh thều thào: 

- Bỏ súng xuống. 

Nhìn đại ca đang nằm dài trên vũng máu, đàn em hắn xúc động lắm, miệng không ngớt gọi đại ca. Anh gào lên, làm máu trong ngực phun ra từ những vết đạn: 

- Đại ca nói mà không nghe sao... Bỏ súng xuống! 

Khi cái súng cuối cùng trên tay các đàn em của hắn rơi xuống nền thì công an từ phòng thánh và từ cửa lớn ập vào, vây bắt, còng tay tất cả và hắn cũng bị dẫn đi khi miệng vẫn còn lẩm nhẩm mấy từ “tại sao”. 

Lúc này vị cha già cùng mấy thầy khóc sướt mướt đến bên anh. Anh đưa mắt lừ đừ nhìn vị linh mục già: 

- Con đã sẵn sàng chịu Rửa tội. 

Một thầy đứng gần đó, nhanh nhẹn lấy bình nước dùng dâng lễ đưa cho cha. Chỉ vọn vẹn một câu nói của vị linh mục, anh đã trở thành một người Kitô hữu. Mắt anh nhìn về phía Thánh Giá treo trên tường. Từ vị trí anh nằm, anh có thể thấy rõ ràng khuôn mặt của Đấng chịu đóng đinh mà bình thường nếu nhìn từ phía trước, ta chỉ thấy vòng gai che kín khuôn mặt. Miệng anh mấp máy mấy lời. Chưa cần nghe hết câu, mọi người đã đón được lời anh nói, đó là lời của bài hát mà mọi người vẫn thường nghe anh hát. Mọi người cùng hát trong tiếng khóc than: 

“Để con đem yêu thương vào nơi oán thù 

Đem thứ tha vào nơi lăng nhục 

Đem an hòa vào nơi tranh chấp 

Đem chân lý vào chốn lỗi lầm. 

... 

Vì chính khi hiến thân, là khi được nhận lãnh. 

Chính lúc quên mình, là lúc gặp lại bản thân. 

Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ. 

Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời.” (*) 

Tiếng hát của mọi người xen lẫn tiếng gió rền, tiếng sấm nổ vang dậy của một vùng đồi núi. Đó là ngày anh ra đi. 

* * * 

Mấy tháng sau, vị linh mục nhận được một cuộc điện thoại của một anh công an quản lý trại biệt giam. 

- Nhờ linh mục đến làm phép rửa tội cho một người ở đây. 

Chính Nghĩa! 

------------------------------------------------------------------------------------- 

(*) Lời kinh Hòa Bình của thánh Phanxicô Assisi.

* Lucia Nguyễn Thị Hồng Nhi (Gx.Tân Dinh)

Gió thu khẽ lướt qua thềm
Trời đêm lặng lẽ kéo rèm đợi đông
Chờ Chàng đã mấy xuân hồng
Sao Chàng chưa đến, em mong đêm ngày

Chờ Chàng tay đến cầm tay
Dìu em vào tiệc vui say ân tình
Đón chào "Hoàng Tử Hoà Bình"
Xiêm y em chọn, trắng xinh tinh tuyền

Lòng son vẫn giữ vẹn nguyên
Lầu cao đã dọn, tóc huyền chải ngay
Lối kia, khập khễnh lấp đầy
Hoa tươi thơm ngát, mỗi ngày toả hương

Bình minh cho đến đêm trường,
Lầu son một dạ, người thương thấu tình
Bốn bề cảnh sắc đẹp xinh
Em đợi “Hoàng Tử Hoà Bình” ghé thăm.

TIA HY VỌNG 



(Mã số: 18-124)

Ánh trăng nhạt nhẽo in cái bóng của cành lá đung đưa lên mảng tường giống như bóng của một con quỷ đang thập thò. Đó là chút ánh sáng duy nhất của cả dãy phòng tối om, tối đến nỗi mà người ta cảm giác có thể sờ được bóng tối. Cần gì phải tiết kiệm đến thế. Cần lắm một ngọn đèn hay một bóng điện thì không gian sẽ bớt nghẹt thở hơn thế này. Tại sao lại không thêm ánh sáng ở nơi dành cho những người sống trong bóng tối? Nhủ thầm cho đỡ tức thôi, chứ biết là chẳng làm được gì. Vì mình là tù nhân, vì nơi đây là nhà tù. 

Căn phòng chật ních chứa mười mấy người. Tiếng dế cứ vang từng chập, rồi lại im thin thít. Tiếng rên của thằng Giang cũng đều đều như thế. Hồi chiều nó bị tụi thằng Thiện đập cho nhừ cái thân chỉ vì cái tội không vâng lời. “Chú mày phải biết cái luật này: cá lớn thì nuốt cá bé, đừng có mà nghênh mặt với lũ này nhé!”. Tưởng bài học gì xa lạ lắm, ngoài đời người ta vẫn đối xử với nhau theo luật này. Ngoài đời thì tranh nhau tiền tài, danh vọng còn trong này choảng nhau cũng vì chút quyền lợi hơn thua, vì ít đồ mà người nhà ở bên ngoài gởi vào. Thằng Giang bị no đòn cũng vì cái tội giấu giếm mấy gói thuốc lá mà chị nó hồi chiều gởi vào. Chẳng biết kêu ai, trách ai. Đời là thế! 

Hay là do đói quá, khổ quá nên mới sinh chuyện tranh giành nhau như thế. Ở một xã hội phát triển, dư đầy cơm gạo chắc chẳng gặp những chuyện lôi thôi này. Không biết người ta sao chứ tôi bị nhốt ở đây cũng vì nghèo đói mà ra cả. Sau năm 1975, nhà cửa, ruộng vườn của tôi đều được đưa vào của chung hết. Thời thế đến bất ngờ quá nên trong nhà chẳng còn trữ được gì đáng giá. Cả ngày hai vợ chồng cứ phơi thây ngoài đồng để mong có được vài điểm từ hợp tác xã. Thương mẹ già, xót xa vợ hiền nên tôi không đành chấp nhận số phận. Đêm đến, hai vợ chồng tôi mon men đến cái sân lúa to đùng mới gặt về chiều nay. Vào được 2 bao lúa, rồi cứ thế, tôi một bao lớn, vợ một bao nhỏ, hai cái bóng đen lao thăn thoắt trong màn đêm tĩnh mịch về nhà. Nhiều lần trót lọt, cho đến cái hôm, khi hai vợ chồng tôi chỉ vừa kịp đặt chân đến cái sân lúa, thì một bóng đen lù lù ở đâu nhào tới, sủa ác úa. Con becgiê lao tới tấn công tôi. Tôi chỉ kịp bảo vợ vứt bao lúa chạy đi, rồi lăn xả vật lộn với con vật hung dữ đó. Nghe tiếng chó sủa, ông thủ kho hợp tác xã cùng mấy người nữa ập đến. Nghèo rồi mà lại gặp cái eo! Chỉ là trộm vài bao lúa nhưng để cảnh cáo những ai có ý định lười biếng lao động, ăn cắp của chung, nên tôi bị nộp cho công an, đưa ra tòa án, rồi được gởi vào trại giam này nhằm cải tạo để trở thành một công dân tốt. Chỉ tội nghiệp cho mẹ và vợ phải tự nuôi thân. 

Nghĩ lại thấy mình cũng chưa phải là bất hạnh nhất ở đây. Ít ra là vẫn còn hơn thằng Giang hay bị đánh đập và cũng hơn cái người đang ở xà lim cuối dãy hành lang đằng kia. Nghe nói hắn ta đã phạm một tội gì nặng lắm, đang bị biệt giam chờ ngày xét xử. Tôi thì cố gắng sống qua ngày, chỉ vài tháng nữa thôi là được trả tự do, được về với mẹ già và vợ hiền. Nghĩ đến đó, tôi thấy một tia sáng hy vọng lóe lên trong cái phòng u uất này. 

Phải chờ cho mặt trời nhô cao hơn cái bức tường rào cao chót vót phủ đầy vòng thép gai thì chúng tôi mới được ra khỏi phòng. Tiếng reng rẻng từ chùm chìa khóa của người cai ngục cùng tiếng quát tháo của anh ta vang cả dãy nhà. Anh cai ngục hôm nay đi tới cuối hành lang và dừng lại ở cái xà lim đó. Hôm nay hắn được thả ra à? Tôi nhủ thầm. Một ân huệ cho hắn chăng? Chứ mấy tuần rồi, từ lúc hắn chuyển đến cái xà lim đó thì chẳng ai thấy cánh cửa phòng đó mở ra. Tôi chỉ hình dung hắn là một tên đồ tể nào đó qua những lời quát tháo của cai ngục: “Đồ quân gian ác, phản động. Mầy tưởng mầy là ai chớ. Tới ăn nè, đồ chó!”. Có hôm người cai ngục là nữ, cũng đến trước phòng hắn chửi bới: “Sao mầy dơ dáy và hôi hám vậy, mẹ mầy không dạy mầy đi vệ sinh thế nào à!”. 

Tôi cố gắng nán lại ở cửa để xem hắn trông thế nào. Một dáng người cao gầy từ xà lim bước ra. Râu tóc dài thượt, nhưng không rối bời, phủ xuống che một bên khuôn mặt, tôi rợn da gà khi bắt gặp ánh mắt sáng quắc đó cũng đang nhìn tôi. 

Bầu không khí trong lành, đầy nắng làm cho con người thật dễ chịu. Nhưng mà cứ ngồi mãi thế này thì rõ chán. Sống phải có mục đích, có hy vọng, có chuyện này chuyện kia thì mới tiếp tục sống được. Bởi thế, đám người ở đây cứ sinh chuyện suốt ngày: Nói xấu nhau, mách lẻo với cai ngục, đánh nhau, cai ngục can thiệp, hứa trở nên người lương thiện, rồi lại đi nói xấu nhau. Cái điệp khúc này cứ quay đi quay lại miết rồi cũng thấy chán. Cuộc đời như thằng Trí ngồi ở góc tường kia có khi lại hay hơn. Suốt ngày nó cứ nhăn răng cười cười nói nói với mình nó, chẳng bao giờ thấy nó buồn cả. Tôi tạt qua chỗ thằng Giang đang ngồi. Con mắt và một bên má của nó vẫn còn in vết bầm của trận đánh hôm qua. Tôi an ủi nó vài câu: 

- Sao rồi, anh Giang, đỡ đau hơn chưa? 

Tay nó xoa xoa con mắt bị bầm, nói: 

- Đỡ cái con khỉ gì! Đau suốt đêm hôm qua, không ngủ được. 

Tôi nhẹ giọng: 

- Thôi anh, cố gắng bảo vệ bản thân mình là chính. Hơi đâu mà ganh đua với tụi nó. 

Nó đập mạnh cái tay xuống bàn một cái, rồi nhăn mặt hít hà vì đụng phải vết thương ở tay, nó nói: 

- Phải dạy cho tụi nó một bài học, tức quá mà, làm gì có kiểu ức hiếp người quá đáng. 

Đàn em của thằng Thiện đứng gần đó nghe tọt được thì xía vào: 

- Ái chà chà, nó muốn dạy tụi mình một bài học nè anh em ơi… 

Cả đám kéo đến, rồi nhường lối cho cái thằng mình mẩy đầy dấu xăm rồng xăm rắn. Đó là thằng Thiện. 

- Sao, chú mầy muốn dạy anh đây một bài học hả? 

Vừa nói, thằng Thiện vừa nắm đầu tóc của thằng Giang, vả vào mồm bốp bốp. Tôi lao vào định can ngăn thì bị đẩy ra. 

- Mầy không muốn no đòn thì cút xéo! 

Chẳng có cai ngục nào ở xung quanh đây cả. Thằng Giang lại bị no đòn một lần nữa. Tiếng nó kêu la cũng chẳng ai để ý. Người trong trại thì quá quen với những cảnh này rồi. Bỗng nhiên, một đứa trong nhóm đàn em của thằng Thiện đang đứng la lên, rồi ôm bụng sụp xuống, rồi tiếp một thằng nữa. Thấy sự tình lạ, đám đông tản ra. Thằng Thiện nhìn thấy một dáng người cao gầy đang lăm le những hòn đá trên tay. 

- Đại ca, nó là cái thằng ở xà lim đó... Đại ca cẩn thận nha. 

Thằng Thiện quát lớn: 

- Từ cha sinh mẹ đẻ tới giờ, tao chẳng ngán thằng nào, có giỏi thì nhào vô. 

Giọng nói nghe hùng hồn vậy thôi, chớ nó cũng nghe nhiều lời đồn thổi về thằng này nên cũng sợ. Bình thường thì nó sẽ nhào thẳng vào đối thủ chứ chẳng có lịch sự mời đối thủ nhào vô. Tôi nhìn hắn, trông khác hẳn, râu tóc của hắn được cắt gọn gàng và vận một đồng phục mới toanh. Trông hắn rất có uy, không phải theo kiểu khiếp đảm của người giang hồ. Đàn em thằng Thiện đứng xa xa mà xỉa xó vậy thôi chớ chẳng thằng nào dám liều mạng nhào vô, một phần vì vị nể đại ca của nó vẫn còn đứng như trời trồng. Mấy cai ngục lúc này mới ập tới, tay cầm gậy đập mấy phát vào đàn em thằng Thiện và cũng đập một phát thật mạnh ở bụng hắn, làm hắn gục xuống. 

- Mày lại sinh sự nữa phải không? Muốn làm đại ca hả? 

Rồi chỉ gậy về phía đám đông đang đứng. 

- Tao cấm thằng nào lại gần tên này. Nó là một tên cực kỳ nguy hiểm. 

Hai cai ngục lôi ngược hắn về xà lim, đám đông rã ra, lúc này tôi mới nghe tiếng rên rỉ của thằng Giang. Tôi đỡ nó dậy, lắc đầu: 

- Rõ khổ mà... 

Nó đớp ngay: 

- Tại tụi nó... 

Tôi ra hiệu im lặng: 

- Anh ăn đòn chưa đủ phải không? 

Tôi dìu Giang ngồi lên ghế đá gần đó, rồi nhỏ nhẹ với nó: 

- Anh có biết cái gã lúc nãy không? 

Thằng Giang rên rên mấy tiếng rồi nói: 

- Thằng hồi nãy cứu mình hả? Đố mà biết nó là ai. Ở đây nhiều người kể về tiếng tăm của hắn, về tội giết người, tổ chức phản động, vượt ngục... Nghe nói hắn còn biết bùa chú nữa. Còn chính xác hắn là người thế nào, tên gì thì đố ai mà biết được. Ở đây hay gọi hắn là đại ca xà lim. 

Nhân vật bí ẩn này làm tôi cứ trằn trọc mãi, ngủ chẳng được. Tôi có một cảm giác rất thân thiện với người này, nhất là cặp mắt sáng quắc của hắn. Tôi chòm dậy, tựa mặt sát vào cửa sắt, nhìn về xà lim cuối hành lang tối om. Tôi nghe vọng lại mấy từ mà chẳng hiểu gì: “Sàn vê rê chí na... ma té mi se ri có đi ê... ” (*). Chắc là hắn biết bùa chú thật. Nhưng mà giọng của hắn nghe thật ấm áp lòng người. Tiếng hát vang vọng trong màn đêm thanh vắng, nâng hồn người đến vầng trăng, nghe thật rõ nếu ai đó vẫn còn thức như tôi. 

Mấy ngày sau, tôi cố gắng bắt chuyện với các tù nhân khác xem thử có ai biết về hắn chăng. Ở đây nhiều người là dân trộm cắp, giang hồ hành tẩu khắp nơi nên nắm thông tin cũng nhiều lắm. Cuối cùng tôi cũng gặp được một người biết chuyện về hắn. Người đó trước kia cũng cùng trại giam với hắn. Theo lời người đó thuật lại thì ngày hắn mới vào tù, trông hắn đạo mạo, nho nhã lắm. Nhiều người ra vào thăm hắn và gởi quà cho hắn. Hắn phải hầu tòa thường xuyên nhưng vẫn chưa nhận một bản án nào. Lạ một điều là cai ngục cứ dăm ba tuần thì lại phải đổi người vì nghi ngờ hắn đút lót cho cai ngục. Còn những người bạn tù của hắn thì nghe lời hắn lắm. Nhiều người hay quỳ trước mặt hắn để xin tha tội gì đó, rồi hắn cho họ ăn một mẩu bánh nhỏ xíu mà họ biết ơn lắm, đón nhận cả hai tay. Hắn bị chuyển đến trại giam này cũng vì cái tội tụ tập đám đông, gây rối trật tự... 

- Hắn là một linh mục! 

Tôi tin chắc như thế. Mà một linh mục tại sao lại bị nhốt vào nơi tối tăm này? Hắn tham gia chính trị, tổ chức phản động à? Tôi tự đặt ra biết bao câu hỏi trong đầu và muốn gặp hắn. 

Sáng nay tôi được một anh công an gọi vào phòng riêng. Anh ta có vẻ hơi ngập ngùng khi nói rằng cho phép tôi được về nhà một ngày. Được về nhà là cái từ tôi đã ao ước được nghe bây lâu nay, nhưng tôi ngờ ngợ có chuyện chẳng lành. Lời nói của anh ta như bầy ong vò vẽ đu bám đầu tôi mãi: “Hôm qua, một chiếc đò chở đoàn người qua sông đã bị chìm, nhiều người đã chết đuối, trong đó có mẹ và vợ anh”. Tôi chẳng còn nhớ mình đã quỵ xuống ghế hay nền nhà nữa. Anh công an dìu tôi đứng dậy: 

- Anh về nhà đi, để kịp đám tang chiều nay! 

Mắt tôi nhòe đi, nghẹn cả cuống họng, chẳng nói được câu nào nữa. Trên chuyến xe áp tải tôi về, hình ảnh người mẹ một đời lam lũ nuôi con cứ hiện về. Tôi vẫn còn nhớ tiếng mẹ cười, tiếng mẹ nói, tiếng mẹ khóc than trong ngày đưa tiễn tôi vào tù. Rồi cái bóng dáng người vợ lại hiện về trong tâm trí. Cưới được người vợ hiền tưởng rằng mình là người hạnh phúc nhất trên thế gian này, nghĩ rằng mình có khả năng lo cho vợ một cuộc sống hạnh phúc mà nhiều người phụ nữ khác hằng mong. Hạnh phúc chưa được bao lâu thì thời cuộc đã lấy đi tất cả. Nhìn bàn chân vợ lấm lem bùn đen từ đồng về khiến cho lòng tôi phải xót xa. Chưa chăm sóc được cho vợ bao nhiêu thì tôi lại phải chôn thân ở chốn này. Ngày tôi vào tù, nàng đã nói rất chân thành “em sẽ chờ anh”. Sự chân thành đó làm tôi nhớ lại lời nàng đã thề hứa lúc cử hành bí tích hôn phối trong nhà thờ. Tôi đã làm được gì cho mẹ và vợ tôi? 

- Mẹ ơi, con được về nhà rồi nè! Em ơi, anh về với em rồi nè... Tỉnh dậy đi em ơi! 

Những người thân đã cố níu kéo tôi lại khi những chiếc quan tài đang dần dần được được đưa xuống huyệt. 

- Chúa ơi... Ngài ở đâu? Ngài có mắt không vậy? Tại sao lại đối xử với con như thế này? Tại sao?... 

Tôi chẳng ngại gì khi la hét lên như thế. Có cả cha xứ và đông đảo bà con giáo dân ở đó. Ai cũng nghe tôi nói, nhưng chẳng ai trả lời cho tôi. 

* * * 

Tôi vẫn thất thần ngồi im lặng ở một góc tường. Tôi nhớ là mình có cười, có nói gì đó. Mà chẳng nhớ là nói cười với ai. Có khi là nói với chính mình. Tôi chẳng còn sợ trời, sợ Chúa gì nữa... Đấng đó chắc là đang hưởng hạnh phúc thiên đàng ở nơi xa tít nào đó, có liên hệ gì đến tôi. Tôi ngửa mặt lên trời, cười khinh khỉnh: 

- Hứ, tao bất cần... 

Đàn em của thằng Thiện thấy hành động của tôi vừa rồi tưởng là coi khinh tụi nó, với lại mấy ngày nay tụi nó chẳng được đánh đấm gì nên mới sẵn dịp: 

- Ái chà, thằng này láo! Nó chẳng xem tụi này ra gì nữa nè. Đập nó đi... 

Có gì mà phải sợ tụi nó chứ. Tôi lên mặt: 

- Tụi bay là cái thá gì, tao đây, trời không sợ, Chúa tao cũng không sợ thì sợ chi đám cỏn con tụi mày... 

Tôi còn đang nói thì bị một tát thật mạnh vào mặt, đau điếng, ngã lăn ra. Tụi nó cứ vậy mà nhào vô đấm đá túi bụi. Thằng Giang ở gần đó liền nhảy bổ vào. Đỡ được vài chiêu rồi thì nó cũng bị dính đòn te tua. Biết là chống cự không lại bọn chúng nên nó chạy đi, kêu la cai ngục inh ỏi. Tôi nhìn nó tôi cười, tự nhiên thấy sặc ở cuống họng, hộc ra một đờm máu. Một bóng người lao tới đỡ đòn cho tôi. Tôi nhận ra dáng người cao gầy đó, con mắt sáng quắt đó. Chính là hắn. Hắn lấy thân đè lên người tôi để hứng chịu trận đòn đang bủa xuống nườm nượp. Những tiếng hò hét của chúng còn vang trong tai tôi trước khi ngất lịm: 

- Đánh thằng đại ca xà lim đi, đánh thằng đại ca dởm này đi! 

Tỉnh dậy, tôi thấy mình đang ở trên giường của khu điều trị trong trại giam. Mình mẩy băng bó khắp nơi. Tôi thấy thằng Giang đang đứng ở ngoài nói gì gì đó với mấy anh công an. Hắn đang nằm ở giường bên cạnh. Hắn chợt động đậy, rồi mở mắt ra nhìn tôi. Ánh mắt như đã chạm tới sâu thẳm trong lòng tôi. Hắn hỏi: 

- Anh đang khóc à? 

- Đâu có... Tôi lúc nào cũng cười mà... 

Vừa nói xong tôi cười thật to... rồi nhăn mặt vì biết rằng cái hàm mình đang bị sưng tấy. Tôi vờ như chưa biết hắn là linh mục nên vẫn chưa đổi cách xưng hô. 

- Anh cứu tôi để làm chi? Đằng nào cũng thế, chẳng thay đổi được gì cả… 

- Chúa buồn lắm nếu nghe thấy những lời đó. 

Tôi vờ như đang suy nghĩ, chưa hiểu hắn nói gì. 

- Chúa chẳng quên ai cả. Chúa biết hết tất cả. Và Chúa yêu hết tất cả mọi người. 

Tôi đưa mắt nhìn lên trần nhà. 

- Anh đang giảng đạo cho tôi à? 

Hắn tiếp lời: 

- Thấy anh như thế này, mẹ anh buồn lắm đó. Còn vợ anh nữa... Anh nghĩ vợ anh sẽ vui khi thấy bộ dạng anh thế này sao? 

Nước mắt giàn giụa, chảy ướt cả gối. Nhưng tôi vẫn cười: 

- Mẹ tôi ở đâu... vợ tôi ở đâu...? Chúa ở đâu khi chiếc đò bị chìm... Chúa ở khắp mọi nơi, sao ông ta lại không có mặt ở đó… 

Hắn chồm người ngồi dậy. 

- Chúa đang ở đây... Chúa đang ở trong tim anh đó, anh có nghe nhịp đập của Chúa không? Lúc chiếc đò chở mẹ và vợ anh bắt đầu chìm, Chúa đã ở đó... Cũng như một chiều kia Chúa đã ở trên đỉnh đồi Canvê, tan nát cõi lòng khi nhìn Con yêu dấu của mình đang thoi thóp trên cây thập tự. Chúa cũng đau đớn khi nhìn thấy anh đang chết dần chết mòn thế này. 

Tôi òa lên khóc nức nở, nghẹn đắng: 

- Tại sao? Tại sao cha có thể chịu đựng được? 

Hắn ngạc nhiên khi tôi đổi cách xưng hô. 

- Chỉ là đỡ vài cú đấm thôi mà. 

- Không... Ý của con là tại sao cha có thể chịu đựng được tất cả những hành hạ, lăng mạ mà người ta đã đối xử với cha? Họ còn chẳng xem cha như một con người... 

Hắn trầm ngâm giây lát rồi nhìn tôi: 

- Niềm hy vọng. Tôi đặt niềm hy vọng vào một nơi, vào một Đấng mà chẳng thể bị mất, chẳng thể bị lấy đi. Niềm hy vọng đó giúp tôi vác thập giá mỗi ngày, chịu đựng mỗi ngày và đón nhận mỗi ngày. Anh có niềm hy vọng không? Niềm hy vọng của anh đặt ở đâu? 

Tôi chồm dậy, kéo tuột cả mũi kiêm đang truyền dịch, sụp quỳ trước giường của hắn, gào khóc: 

- Có, thưa cha... Niềm hy vọng của con là ở nơi Chúa. Xin Chúa tha tội cho con... Cha ơi, xin cha tha tội cho con. 

Hắn cũng choàng dậy, ôm vai tôi. 

- Chúa tha hết tất cả... Chúa chỉ cần anh sám hối, trở về cùng Người thôi. Chúng ta đều có niềm hy vọng, mẹ anh và vợ anh cũng có niềm hy vọng. Anh cũng vậy, anh cũng có niềm hy vọng là ở nơi Chúa. Anh có hy vọng mẹ và vợ anh được ở cùng Chúa trên thiên đàng không? 

- Dạ có… có, thưa cha! Xin cha cầu nguyện cho mẹ và vợ con. 

Chiều hôm đó tôi đã lãnh nhận bí tích hòa giải, tôi xưng thú hết những lời nói xúc phạm đến Chúa, cả những tội tôi đã phạm từ lúc tôi bị giam ở đây cho đến bây giờ. Tôi có cảm giác như mình vừa được tái sinh. Giờ đây, Chúa là người thân thiết nhất của tôi và là niềm hy vọng của tôi trong những tháng ngày còn lại trong đời mình. Hắn hồi phục thương tích nhanh hơn tôi, nên được trả về trại giam sớm. Khi tôi trở về phòng giam thì không còn thấy hắn ở xà lim đó nữa. Thằng Giang kể lại việc thằng Thiện cùng lũ đàn em của nó đổ hết lỗi về vụ đánh nhau đó cho hắn và hắn đã được chuyển đến trại giam khác trong một đêm tối. 

Xà lim của hắn vẫn để trống cho tới bây giờ. Trước phòng hắn, người ta đã gắn một bóng điện tròn. Nhờ đó, hành lang của dãy nhà này luôn được sáng, kể cả những đêm không có ánh trăng… 

----------------------------------------------------------------------------------------------- 

(*) Salve Regina Mater misericordiae: Kính chào Đức Nữ vương, Bà là Mẹ xót thương.

MẦM SỐNG 



(Mã số: 18-123)

Chị đến nhà thờ thì trời đã tối sẫm. Lúc đặt chân đến vùng núi rừng trùng điệp này, chị không nghĩ ở đây lại có sự hiện diện của một ngôi nhà thờ nhỏ. Ban đầu chị không có ý định ghé thăm bất cứ địa danh nào ở cái nơi xa lạ mà lần đầu chị tìm tới, bởi trong tâm tưởng của chị chỉ có một mong muốn duy nhất là tìm đến cái chết, điều mà chị đã nhen nhóm từ trước khi bắt đầu cuộc khởi hành. Chị đã hình dung ra cảnh tượng cơ thể mình lao xuống vực và nằm bất động ở đó, và nếu không có gì thay đổi thì có lẽ cũng chẳng ai biết đến cái chết của một người phụ nữ xa lạ như chị nơi xó núi heo hút này. Một cái chết âm thầm. Nhưng rồi hình ảnh của ngôi nhà thờ nằm trên con đường chông chênh đá sỏi gồ ghề đã thôi thúc chị, như một bản năng còn sót lại của một người Kitô hữu khi đối diện trước ngưỡng cửa cuộc đời. 

Chị đến tìm Cha và bảo rằng mình muốn xưng tội. Cha nhìn chị ngạc nhiên quá đỗi, làm sao một cô gái nhỏ nhắn tìm đến nhà thờ vào lúc tối muộn chỉ với mong muốn được xưng tội? Rất điềm nhiên, cha hỏi chị: 

- Con không phải là người vùng này? 

Chị lặng lẽ gật đầu, người chị như muốn lả đi. Theo lộ trình trong trí nhớ, chị leo lên một chiếc xe đò chạy dọc theo tỉnh lộ Đường Trường đến vùng núi này thì xuống xe. Rồi chị cuốc bộ một quãng dài đến lưng chừng núi, chị cố gắng tìm kiếm một nơi thật vắng vẻ cho cái chết của mình. Chị không muốn phiền lụy ai, chị đã suy tính rất kĩ lưỡng mọi chuyện. Người ta tưởng chị đến đây một mình nhưng không, chị còn mang theo một sinh linh bé bỏng trong bụng. Đó dường như là một lộ trình hoàn hảo mà chị cố vạch ra nhưng cái thai khiến chị mệt nhoài. Lúc chị đứng nghỉ mệt ở một góc đường, cái thai không ngừng quẫy đạp không cho chị tiến bước. 
Chính lúc đó, chị rảo mắt nhìn về xa xăm và nhìn thấy một ngôi nhà thờ cùng ánh đèn leo lét, hình ảnh cây thập giá đập vào mắt khiến chị tỉnh ra và quên đi ý định ban đầu. Chị từng nhớ một câu trong giáo lý, “chính Thiên Chúa là Đấng ban sự sống và là Chủ tối thượng của sự sống, chúng ta là người quản lý chứ không phải là chủ của sự sống mà Chúa đã trao ban, do đó, chúng ta không có quyền định đoạt về mạng sống của mình”. Vậy mà suýt chút nữa chị đã phạm phải lệnh cấm của Thiên Chúa. Là đứa trẻ hay hình ảnh ngôi nhà thờ đã giúp chị nhận ra điều đó? 

Đêm ở nhà thờ dài hun hút. Các Sơ đưa chị tới một gian phòng nhỏ để nghỉ lại. Chị vẫn chưa được xưng tội, mọi người lo lắng cho sức khỏe của chị. Chị cứ nằm đó nhưng không ngủ được. Chị đọc kinh và cầu nguyện trong âm thầm. Rồi chị lại nghĩ suy về nhiều thứ, về cuộc đời mà mỗi người phải trải qua, giống như chị hiện giờ. Người ta mong mỏi điều gì cho cuộc đời của mình? Cái đích đến cuối cùng mà mỗi người đang tìm kiếm, liệu rằng có mấy ai đủ thông suốt để thấu hiểu? Những câu hỏi rối như tơ vò, chị cứ nghiêng mình trằn trọc cho đến gần sáng, rồi giấc ngủ bao trùm lên cơ thể yếu ớt của chị. 

Sáng hôm sau, chị ngồi đối diện với Cha qua một tấm vách, chị kể về cuộc đời mình. Chị thú nhận đã có ý định tự tử khi đặt chân đến đây. Chị yêu một người đàn ông nhưng rồi chị phát hiện ra anh ta đã có vợ và con riêng. Lúc đó, chị đau đớn nhận ra mầm sống của anh cũng đang hình thành bên trong con người chị và khiến tình cảnh của chị ngày càng tồi tệ hơn. Ban đầu chị dự định sẽ sinh ra đứa trẻ này. Chị sẽ nuôi dưỡng và giáo dục nó trở thành một con người tốt nhưng khi gia đình biết chuyện, đó thực sự là cơn ác mộng mà chị chẳng bao giờ nghĩ tới. Bố chị cự tuyệt với cái thai, ông tức giận đến nỗi không bao giờ nhìn mặt con gái. Ban đầu chị cố gắng chịu đựng nhưng sự hà khắc của ông khiến chị trở nên trầm cảm và túng quẫn. Chị lựa chọn cái chết, chị như thế một con thú bị dồn đến đường cùng và sẵn sàng lao xuống vực, rồi chị có mặt ở vùng núi này. Chị được Cha xóa tội vào sáng hôm ấy, suy cho cùng, chị là một kẻ đáng thương hơn đáng trách. Lỗi lầm của chị xuất phát từ sự cả tin và yêu thương mù quáng. Ngoài kia, có nhiều kẻ cũng lâm vào hoàn cảnh như chị, có người đã tìm về với Chúa dù đối nghịch với tình yêu của Thiên Chúa hằng sống, cũng có người đã thức tỉnh vào giờ phút quan trọng nhất của cuộc đời giống chị. 

Nhưng giờ đây đã khác rồi, chị không giữ lấy cái ý định điên rồ như trước khi chị đặt chân đến vùng núi này nữa. Mỗi ngày chị đều cần mẫn giúp việc cho nhà thờ và chuyên tâm cầu nguyện cho đến khi chuyển dạ. Chị nhớ đến những giờ khắc hạnh phúc mà chị đã từng có, chị bỗng yêu quý cuộc sống này. Còn đứa trẻ trong bụng, nó không có tội tình gì khi phải trút bỏ sự sống cùng với chị. Nếu nghĩ theo hướng tích cực, đứa trẻ chính là một món quà được gửi gắm trong lúc chị khốn cùng nhất, không có một người mẹ nào trên thế giới này nhẫn tâm tước bỏ đứa con của mình. Thời gian trôi qua, cái thai của chị mỗi ngày một lớn, chị không còn cảm thấy hờn giận như trước. Chị mong chờ một tiếng trẻ khóc, rồi chị sẽ làm lại cuộc đời, đứa bé sẽ mang họ chị nhưng không có nghĩa nó sẽ thiếu thốn tình thương, chị sẽ yêu thương nó gấp đôi hoặc nhiều lần hơn thế để bù đắp cho hình ảnh của một người bố. Chị cảm thấy lòng mình tràn đầy tha thứ, và nếu như anh có tìm đến để nhìn mặt đứa con của mình, chị cũng sẽ sẵn sàng mở lòng mình ra để đứa bé biết đến sự hiện diện của anh. 

Chị viết thư về cho mẹ. Mẹ là người lo lắng và yêu thương chị vô điều kiện dù chị đã từng lỗi lầm, chị cảm thấy hối hận trong giờ phút xuẩn ngốc của cuộc đời, chị đã quên đi sự hiện diện của mẹ. Trong thư, chị kể nhờ hồng phúc của Thiên Chúa, của Cha và các Sơ, chị đã thôi làm điều dại dột. Chị thấy mình may mắn và mang ơn, Chúa vẫn luôn ở bên chị, Chúa luôn có mặt vào lúc chị tuyệt vọng nhất và giúp chị nhận ra ý nghĩa của cuộc sống. Chị lại kể về vùng núi này, có lẽ cả cuộc đời sau này mẹ chị chẳng bao giờ đặt chân đến đây. Dân cư ở đây thưa thớt, khắp nơi chỉ toàn núi thẳm rừng xanh. Họ chủ yếu là dân di cư từ các miền xa xôi ở các tỉnh phía Bắc sống dọc theo các triền núi, lác đác như có ai đó dựng lên một vài căn nhà giữa nơi hoang vu. Họ chủ yếu sống dựa vào đất đai, trồng trọt và chăn nuôi. Điều chị cảm thấy ngạc nhiên là dù đường đi khó khăn hiểm trở như vậy, nhưng tuyệt nhiên không có một buổi lễ chủ nhật hay những ngày lễ trọng nào mà nhà thờ không trở nên đông đúc. Họ đến nhà thờ cùng với đức tin mạnh mẽ của mình, điều mà những người như chị thường hay thiếu hụt dù sống ở những đô thị đầy đủ tiện nghi. Thời nào cũng thế, những người Kitô hữu đi trước mở đường và mang theo đức tin, Giáo hội đến sau để thiết lập giáo xứ và thăng tiến cho đức tin đó. Ở đây một thời gian, chị nhớ mặt từng con người lam lũ của vùng núi rừng này, họ như những đốm lửa thắp sáng lên đức tin bên trong con người chị, họ bao dung cho con người lầm đưỡng lỡ bước như chị qua những câu hỏi thăm ân cần, một vài món ăn thức uống đem tới để chị chu toàn cho đứa bé. Chị thấy lòng mình cảm động đến nghẹn ngào. 

Chị có thư từ thành phố, của mẹ. Trong thư mẹ viết, thời gian trôi qua, sự hà khắc và cơn giận của bố chị cũng nguôi ngoai đi. Khi biết chị có ý định tự tử thì cũng là lúc ông cảm thấy mình suy sụp, ông vẫn là một người bố yêu thương chị hết mực, nhưng chính sự nóng giận đã khiến ông mất hết lý trí. Ông thú nhận với mẹ chị rằng lẽ ra trong thời khắc cùng cực nhất của đứa con gái, ông phải là người giang tay ra che chở nhưng sự sĩ diện khiến ông mờ mắt. Trong đêm, chị ngồi khóc như một đứa trẻ. Chị chợt nghĩ đến những câu hỏi không lời giải đáp mà chị đã từng nghĩ suy trằn trọc trong buổi tối đầu tiên ở nhà thờ. Người ta mong mỏi điều gì cho cuộc sống này, cuối cùng thì chị cũng đã trả lời được, đó chính là sự yêu thương. Sự yêu thương sẽ khiến con người ta đủ can đảm để chống chọi với những thử thách mà cuộc đời đem đến rồi bỏ đó. Sự yêu thương chính là là liều thuốc tinh thần hữu hiệu nhất để chữa lành mọi vết thương và khiến người ta xích lại gần nhau hơn trong cuộc sống đầy rẫy những khó khăn phía trước. 

Buổi sáng, chị lại đến tìm Cha. Lúc này, không cần chị mở lời, Cha đã đoán được ý định của chị. Cha cười hiền, nói: 

- Có phải con muốn quay lại với gia đình không? 

Chị trả lời: 

- Thưa Cha, nhờ hồng ân của Thiên Chúa, con không còn lẻ loi trên hành trình của mình nữa. Chính sự yêu thương của Thiên Chúa đã gắn kết những trái tim Kitô hữu lại với nhau. Con xin cảm ơn Thiên Chúa, cảm ơn Cha và các Sơ đã giúp con tìm thấy ý nghĩa cho cuộc sống mình. 

Cuối ngày, vùng núi rừng trùng điệp tiễn chân chị về lại nơi khởi hành. Chị đến vùng núi hoang vắng này cùng vết thương lòng và cơn tuyệt vọng nhưng trở về thì tràn đầy đức tin và yêu thương. Trên chuyến xe chạy dọc tỉnh lộ Đường Trường, người ta đã chứng kiến một người phụ nữ không còn đơn độc và mang theo đó là một mầm sống của sự tha thứ. Bất giác, chị nghĩ về gia đình, về đứa trẻ còn độ chừng vài tháng sẽ chào đời, rồi ngôi nhà sẽ tràn đầy tiếng trẻ khóc cười, sẽ thấy đáy mắt long lanh của bố mẹ chị nhìn nhau trìu mến. Tự nhiên khi nghĩ đến viễn cảnh đó, chị không còn cảm thấy quãng đường dài xa xăm...



Được thầy Rufino Zaragoza, nhạc sĩ dòng Phanxicô,  tâm huyết sáng tác. CD này được xem là một hiện tượng khi được đông đảo mọi người đón nhận và trở thành một trong những CD hoà tấu Thánh ca bán chạy nhất trên cửa hàng trực tuyến Amazon tại Mỹ.


Bằng tiếng độc tấu nhẹ nhàng từ các nhạc khí như dương cầm với cello, sáo và tây ban cầm hòa vào êm ả, "Nơi Thánh Thiêng" phù hợp với tâm tình tĩnh tâm và cầu nguyện trong cộng đoàn và cho bản thân mỗi người.

"Nơi Thánh Thiêng, nơi linh hồn tiếp cận với sự thánh thiện, nơi ta thì thầm cầu nguyện, khấn hứa, thoát khỏi mọi sự nỗi đau khổ và là nơi Đấng Chí Thánh ấp ủ lấy ta. Hãy đi vào sự bí ẩn của tâm hồn, bước sâu vào nơi Thánh Thiêng"
- Thầy Rufino Zaragoza, OFM -

Album Nơi Thánh Thiêng của Thầy Rufino Zaragoza là một trong những album hoà tấu Thánh ca bán chạy nhất của OCP tại Việt Nam. Nay bạn có thể nghe trên Apple Music, cùng lắng nghe và suy niệm Thánh ca mọi lúc mọi nơi nhé 



Bạn có thể tìm mua CD tại các nhà sách Công Giáo trên toàn quốc theo danh sách sau: http://ocpvn.org/lien-he/phan-phoi.html

Nguồn: OCP Vietnam



* Gioakim Nguyễn Hoàng Hiệp (Gx.Trường Cửu)

Một, hai, ba… đếm từng ngày còn lại
Ai hỏi ai đã bao nhiêu ngày rồi
Từ cái nơi ta thủ thỉ ta ngồi
Sắp tròn năm, sắp tròn ngày hội ngộ

Cây văn thơ năm nay đã nở rộ
Chỉ chờ ngày gặt hái nhiều quả ngon
Mùa bội thu, mùa cây trái nở tròn
Và mùa ghé cho ta nhiều nhung nhớ

Nhớ từng giờ, nhớ từng ngày, ta nhớ
Nhớ từng người từ lạ lẫm thành quen
Mùa năm trước đâu đã thành kỉ niệm
Phút chia lìa bật khóc có còn quên

Vẫn còn nhiều người ta chưa biết tên
Là đã biết, chưa quen hay chưa xuể
Chuyện hôm nao bạn, tôi sẽ cùng kể
Dưới mái nhà Đặng Đức Tuấn năm nay

Hẹn gặp em, hẹn gặp em một ngày
Ngày ta cùng hội ngộ nơi đây…