Nhớ lần đầu tiên nó được lên Tivi, thích ơi là thích!

Hình minh họa 


Hồi đó nó học cấp 2, đại diện trường để lên tỉnh thi tiếng hát học sinh trung học. Đứng trên sân khấu, nó thích nhất là lúc được khán giả vỗ tay. Nó thấy lạ, vì những người không quen không biết tự nhiên lại vỗ tay cho mình. Vui ơi là vui! Vui hơn nữa khi trong số những khán giả ấy có một số bạn bè thân thiết của nó. Cổ động viên của nó là nhóm gần chục đứa bạn thân. Nhóm này đi đâu cũng quậy. Đi cổ võ cho nó trên sân khấu thì càng quậy ác chiến. Hồi đó, để lên tỉnh, tụi nó phải dậy thật sớm đạp xe đạp gần 4 tiếng đồng hồ. Tụi nó chuẩn bị cả đêm rồi xách theo đủ thứ, nào là cái băng rôn dài nhằng với dòng chữ đỏ chót, cái trống tùng xèng mượn được trong trường, mấy cái dây vải làm khăn quấn đầu… Cả nhóm vui như một ngày hội.

Trên sân khấu, nhìn xuống những cánh tay vẫy vẫy nó như thấy mình được thêm lửa, hát khí thế hơn…

Về nhà, xem lại trên Tivi buổi lễ phát giải, nó thấy mình chìm ngợp giữa vòng vây của bạn bè. Trên cổ nó là cái vòng hoa dâm bụt, lá nhiều hoa ít, héo queo vì phải chờ từ sáng tời tối mới tới được với cái cổ của nó.

Nó chỉ nhận ra mình qua cái kiểu cười ngoác miệng rộng tới mang tai. Xấu hoắc. Mà vui!

—–o0o—–

Lớn lên. Nó đi làm xa, chẳng có nhiều bạn bè gần gũi để cổ vũ, cũng chẳng có nhiều người để vỗ tay. Khi nào thất bại thì phải tự mình rút kinh nghiệm cho những lần sau. Khi nào thành công thì một mình mỉm cười với mình. Cười cho tới khi thấy dư vị của thành công trở nên nhạt nhẽo, thì thôi!

Tuần rồi nó lại lên Tivi.

Hình như người lớn mà muốn lên Tivi thì khó hơn trẻ con nhiều lắm. Để nói trên Tivi, ít ra nó phải báo trước cho người ta biết rõ là nó sẽ nói cái gì. Rồi nó phải chuẩn bị kỹ càng. Nghĩa là cứ ôn đi ôn lại những điều mình sẽ nói cho tới lúc nhuyễn như cháo! Nó cũng phải dự phòng mọi tình huống bất trắc, phải tưởng tượng ra đâu là những điều bất ngờ mà người ta có thể hỏi.

Một mình, tự nhiên tất cả những chuẩn bị ấy cứ nhạt nhạt thế nào…

Vào trường quay, ba lão quay phim, một lão đạo diễn, và nó. Ông đạo diễn hỏi: Sẵn sàng chưa ? Nó lạnh lùng: Ok! Rồi: action! Những cái đèn pha chiếu thẳng vào mặt nó. Ba cái máy quay tập trung vào nó. Nó mở miệng, khua tay và bắt đầu áp dụng tất cả những gì mà môn học về truyền thông đã dạy mình!

—–o0o—–

Từ nhỏ tới lớn, trong môi trường giáo dục của mình, nó chỉ được dạy cho khoanh tay mỗi khi nói. Truyền thông dạy nó phải làm khác. Người ta phải biết sử dụng trọn vẹn cả con người mình trong lúc nói năng. Chẳng hạn để khẳng định một điều thì người ta nắm tay lại. Để thể hiện sự ngây thơ của mình thì người ta ngửa hai tay lên, dang ra, rồi nhún vai một cái. Để tạo sự đáng yêu, người ta hơi hất cái đầu nghiêng nghiêng qua một bên… 
Truyền thông cũng dạy cho nó biết phải xuất hiện trước mắt người ta như thế nào, phải thể hiện như thế nào khi đối diện với từng cái máy quay phim: một cái quay ở chính diện, một cái quay ở một góc, một cái cận cảnh… Dường như nó phải làm chủ toàn bộ các chỉ điệu bộ từ giọng nói, nét cười, đến một cái khua tay và kể cả một cái nheo mắt. Để làm người của công chúng, dường như nó phải là một diễn viên hoàn hảo.

Nó không quen đóng kịch. Nó càng không phải là người theo chủ nghĩa hoàn hảo. Cứ quay, cứ dò, và người ta sẽ tìm thấy nhiều sai lỗi nơi nó. Con người mà, sao hoàn hảo được. Thế mà hình như cứ mỗi khi lên Tivi, phải xuất hiện trước nhiều người, người ta lại bị đòi trở thành hoàn hảo. Không được thì người ta lại vờ như mình hoàn hảo.

Về nhà, xem lại đoạn phim, nó thấy mình trở nên khác ghê!

Tự nhiên nó thèm nhìn lại hình ảnh của mình ở lần đầu tiên xuất hiện trên Tivi: một thằng nhóc cười ngoác miệng tới mang tai, cái mặt nhăn nhăn, hai con mắt nhắm tít thò lò… Xấu hoắc. Mà vui!


Roma – 2009
khoá học truyền thông đầu tiên
Greogoriana-Radio Vaticana-CTV



NHỮNG CỦ KHOAI TREO LỦNG LẲNG 


(Mã số: 18-086)

Anh vớ vội cái áo khoác, bước vội bỏ đi, không ngoảnh mặt nhìn Dung lấy một lần, để lại chị đơn độc trong chính ngôi nhà của mình. Mọi chuyện diễn ra quá vội vàng, cả hai đều muốn là người nói và một người ra đi là tất yếu của cuộc cãi cọ không điểm dừng. Dung không chỉ buồn vì sự cứng cỏi, nóng nảy cũng như những cáo buộc vô cớ của anh, mà trên hết chị buồn bởi anh không đặt niềm tin nơi chị. 

Cửa hàng chị chiếm một góc nhỏ giữa thành phố ồn ào, tấp nập. Vẫn người ra kẻ vào, vẫn nhịp sống quen thuộc mà đầy nhựa sống nhưng chỉ khác là hôm nay, ngay lúc này cô chủ nhỏ cửa hàng TUYLIP chỉ còn thấy tất cả như gánh nặng, mệt mỏi và vô hồn. Lòng chị không thôi nguôi được nỗi buồn đang đeo bám, đang víu chặt mà chưa cách nào để gỡ, để thoát ra, để về với những tháng ngày bình yên ban sơ chị từng có. Dung thở dài, một ý nghĩ lóe lên, không đợi lâu chị gọi điện nhờ Mong trông hộ cửa hàng dăm ngày để chị về quê. Dung biết đây là lúc chị cần nghỉ ngơi, cần một người lắng nghe, cần một người cho chị lời khuyên đúng đắn và người đó chỉ có thể là mẹ. Lúc này chị cần về với mẹ… 

* * * 

Xe lăn bánh để lại đằng sau thành phố Đà Nẵng nhộn nhịp mà chật chội, bụi bặm. Bánh xe xoay tròn đều bỏ lại dòng xe tới lui tấp nập, bỏ xa hàng quán và cơ man những khuôn mặt đang chạy đua với thời gian. Riêng Dung, chị cắm tai phôn vào chiếc điện thoại mở sẵn những bản nhạc không lời, nằm an vị trên chiếc ghế của mình và để cho những suy nghĩ miên man tự do phiêu lãng. 

Dung biết về nhà thế này mẹ sẽ cười chị cho mà xem! Cả năm được mấy lần về thăm mẹ, toàn những lần chị khất, những lần chị phân bua giải thích nào công kia việc nọ lúc mẹ bảo hai đứa về thăm. Ấy thế mà giờ lại la lết về với mẹ, về để thấy mẹ, để nghe mẹ mắng yêu, để kể mẹ nghe nỗi chán chường hôm nay chị vấp phải mà không như những lần trước, những lần chị có thể tự mình vượt qua được. Mà phải rồi, sao sống với mẹ đã trải qua bao gian khổ của cái nghèo, cái túng thiếu mà chẳng khi nào thấy mẹ kêu la, than thở? Mẹ trong chị luôn là điểm tựa cho ba mỗi lần ba mệt mỏi, là nơi đón ba trở về sau những ngày dài đi xa. Rồi những biến cố lớn nhỏ của gia đình mình mẹ đều vượt qua, để sau tất cả mẹ giữ gìn một mái ấm bình yên cho ba cho chị cho em trai và cho mẹ. Dung tự nhủ phải chăng ba mẹ chị có những quy luật xử lý chuyện riêng tư bí mật riêng của họ? Để khi có xung đột, có mâu thuẫn, một trong hai người sẽ làm hòa nhanh thôi hay sẽ cùng tìm ra cách giải quyết. Hay là nhờ sự kiên nhẫn đợi chờ và tin tưởng ở nhau để vượt qua thử thách, cả gia đình chị luôn ấm êm, luôn đông đủ. 

Đèn đỏ. Xe dừng. Bỗng chị vẳng nghe đâu đó tiếng rao: “Ai khoai lang nóng đây!... Tiếng rao và những củ khoai thân quen quá, tha thiết quá. Chúng gợi nhớ để rồi đưa chị về lại với hình bóng quê nhà, về với một tuổi thơ có cả êm đềm lẫn buồn thương bên gối mẹ. 

Chị thấy mẹ đang rê lúa, vụ mùa này vắng ba, mẹ con nhà chị phần nào thêm vất vả. Hai chị em Dung thì lại còn quá nhỏ để gánh vác công việc đồng áng đỡ đần mẹ, chỉ chăng là lon ton đưa mẹ cốc nước chè mát lạnh, trao mẹ khăn mùi soa để bà vội vàng quyệt trán, hay như ngồi chơi đuổi chim, đuổi gà cho chúng khỏi phá lúa phơi trên sân. Năm nay, ba chị cùng các chú trong xóm xuống Long Hải theo câu mực vì nghe dưới làm ăn được lắm. Chị và cu Hải luôn nhớ lời ba căn dặn trước khi đi xa là hai đứa phải ngoan, phải nghe lời mẹ chờ ba về sẽ thưởng. Hai chị em đã ngoan lắm, đã chờ không biết bao lâu rồi mà ba chẳng thấy về. 

Ngày ba đi mẹ vẫn gieo hạt, mẹ xen canh trồng thêm khoai, thêm bắp. Chúa, Mẹ không phụ lòng nông dân, không để con cái mình mãi nheo nhóc khổ sở, Ngài vẫn ngày đêm thương đoái cho hạt giống nảy mầm, ngô khoai thêm xanh tốt hứa hẹn một vụ mùa bội thu. Mẹ chị vẫn vậy luôn trung thành với lời kinh, tràng chuỗi. Mỗi đêm khi hai chị em đã ngủ ngon trong chăn ấm, mẹ lại đưa áo quần ra khâu vá. Chị vẫn nhớ mẹ có lần làm một hành động thật kỳ quặc mà mãi sau chị mới hiểu, đó là bà ôm hôn tìm hơi ba từ những tấm áo ông để lại. 

Năm nay được mùa, tiếng trẻ con cười reo trên khắp các cánh đồng lúa chín, tiếng xe bò kéo lúa về, tiếng gọi nhau ý ới đi gặt cùng tiếng máy xay lúa, hòa chung niềm vui cả xóm đạo. Mẹ chất những bao thóc vàng kề tường, rồi mẹ bán khoai, bán bắp cho người ta lên bến xe, chợ dinh, lên các chợ bán nhỏ. Mẹ cũng không quên để dành cho ba những củ khoai ngon nhất, đẹp nhất và chẳng bao giờ chị quên hình ảnh những củ khoai được treo lủng lẳng trên giàn bếp, mỗi khi gió chiều lùa vào khung cửa để theo sau chúng đung đưa đến vui mắt. Mẹ vẫn đợi ba về chung niềm vui mùa gặt, về để thưởng thức những củ khoai béo ú mẹ con để dành cho riêng ba. Thế rồi hết mùa mực, đến hết mùa câu xa bờ mà ba vẫn chưa về, thư ba cũng thưa dần. Người ta dần xì xào bàn tán. Chị vẫn nghe các chú bóng gió nửa đùa nửa thật: 

- Ba không về với cái Dung nữa rồi, cô Út Long Hải giữ chân rồi còn đâu! 

Dung quyết không tin những lời đó, nhưng dần dà mỗi ngày người ta nói nhiều hơn làm chị bực mình. Cu Hải nó chẳng nói gì, chỉ nhìn chị rồi hai chị em lủi thủi về. Mẹ có hỏi hai đứa sẽ cùng lắc đầu đáp: 

- Chẳng có chuyện gì đâu mẹ à! 

Chị chẳng mong mẹ nghe được những lời như thế, chị chẳng muốn mẹ buồn tí tẹo nào, mẹ đã vất vả lắm rồi, giờ thêm chuyện này… Ấy thế mà mẹ đã biết chuyện đó từ hồi nào rồi, chỉ là mẹ vẫn tin ba, mẹ chẳng chấp nhận những lời đồn thổi như thế. 

Những củ khoai không như lòng tin sắt đá bền chặt của mẹ vào ba. Chúng co rúm lộ rõ vẻ xấu xí theo thời gian. Giờ chúng trở thành đồ bỏ đi dù ba có về ngay lúc này. 

Cu Hải sốt nặng, người ta đưa nó vào viện, suốt mấy ngày liền nó mê man miệng không ngớt gọi tên ba. 

- Ba, về với con, về với con đi ba! Ba…! 

Nó vẫn thường hét lớn như thế mỗi bận trở mình thức giấc giữa đêm, xa ba, vắng ba giờ thành ác mộng với nó. Mẹ thức cả đêm trông thằng Hải, mắt mẹ mờ đi vì quá nhiều phiền muộn, lo âu sầu khổ. Hải vẫn chẳng chịu chợp mắt, chỉ đến khi mẹ đắp áo ba lên mình nó, nó mới dần thiu thiu ngủ. Mẹ, nó và cả chị, cả nhà nhớ ba. Chị nghi ngờ có khi nào thư mẹ con chị gửi đi ba chưa nhận được, như an ủi, như tự trấn tĩnh nỗi lo sợ về một sự thật vô hình đang bao phủ gia đình chị. 

Sau ngày cu Hải hết bệnh, mẹ gửi chị em chị cho thím Nhàn. Với mấy bộ đồ, mình mẹ cất thân xuống Long Hải tìm ba . 

* * * 

Xe vẫn lăn bánh, mang theo giấc ngủ chập chờn. Mấy đêm mất ngủ làm thể trạng chị yếu đi, ngủ làm sao được khi những lời anh nói vẫn hằn in lên tâm hồn chị. Dung nhớ như in trận cãi vả chiều hôm đó. Chị chẳng biết anh nghe ai nói và thấy những gì, chỉ biết khi chị làm về đã thấy anh ngồi sẵn tự bao giờ đợi chị. Anh lạnh lùng nghiền từng tiếng khi hỏi: 

- Sao giờ này em mới về? 

- Hôm nay nhiều khách hàng đặt hoa cưới hỏi nên em tranh thủ làm thêm. 

- Còn hôm qua, hôm kia. 

- Anh à, anh thừa biết công việc của em không chi phối bởi thời gian mà bởi lượng khách mà!- Chị nhẹ nhàng giải thích. 

- Hay là em có những vị khách đặc biệt, cần có thời gian riêng tư để trao đổi nơi quán cà phê, để chuyện trò đến quên thời gian, quên cả chồng con. 

Đang xếp chiếc gót còn lại lên giá, chị thần người ngừng lại. Câu nói của anh không đơn thuần còn là lời hỏi han quan tâm, rõ ràng nó ẩn chứa điều gì! À… thì ra anh buộc cho chị cái tội lăng nhăng… là… là… Nghĩ đến đó chị chịu hết nỗi. Sự tức giận nổi lên làm chị không kìm được bình tĩnh, nhìn thẳng vào anh chị cáu bẳn: 

- Sao anh lại nói thế? Anh dựa vào đâu để xét đoán em như vậy? Anh… anh…- Chị nghẹn ngào nói không ra tiếng. Cổ họng nghẹn đắng vì tức giận. 

- Anh làm sao? Dựa vào đâu ư? Chính anh nhìn thấy tất cả.- Rồi anh tiếp: Em giải thích sao về Hưng, nó về khi nào anh không hay biết? Hôm qua… Hừ… hay là cả tuần rồi… Mà dù hôm qua thì sao em không nói anh biết? Á à… Hay tình cũ không rủ cũng đến, hai người âm thầm hẹn hò sau lưng tôi! Hừ… hừ… 

- Anh nói đủ chưa? Thật tôi không hiểu sao anh đa nghi như thế, tôi chỉ tình cờ gặp lại anh ấy… Mà rồi đây nếu anh muốn tôi sẽ gọi Hưng đến gặp anh, chúng ta cùng nói chuyện, được chưa? 

- Thì tôi đa nghi, tôi là người không biết gì ngoài yêu vợ, làm việc quần quật cả ngày để lo cho gia đình này… Còn trong lòng vợ tôi thế nào, sau lưng tôi cô ấy sống ra sao, gặp gỡ hẹn hò với ai tôi chẳng biết… Tôi là thế đấy! 

Chị ớ ra không nói được lời nào. Còn anh, anh chọn sự ra đi, đi trước sự chưng hửng của chị. 

Hưng và anh vốn là bạn thân, tình yêu của chị với Hưng anh là người biết rõ hơn ai hết. Chuyện tình của họ sẽ êm đềm trôi nếu như Hưng không bỏ cuộc trước sự phản đối của gia đình, để rồi Hưng chọn cách đi du học ở Nhật như một sự trốn tránh. Anh đi để lại Dung một mình gặm nhấm nỗi đau khổ. Chị dường như sụp đỗ niềm tin hoàn toàn vào tình yêu, một tình yêu không đâm sâu bén rễ. Chị mong nơi anh câu đợi chờ hơn ngàn lần lời chia tay cay đắng. Chẳng lẽ tình yêu hai người dành cho nhau không đủ vượt qua rào cản tôn giáo. Rồi những tháng ngày đau khổ ấy dần nguôi, khi bên chị anh luôn là người quan tâm chăm lo, lắng nghe chị, giúp chị dần về lại với cuộc sống. Chị biết lòng anh yêu chị từ rất lâu rồi, nhưng mãi chấp nhận là người đến sau và vì bảo vệ tình bạn, anh chọn cách giữ im lặng. Rồi ngày tháng trôi qua anh dần chinh phục trái tim chị, anh cho chị bến bờ bình yên sau những phiền muộn. Anh định hướng chị học cắm hoa, giúp chị trưởng thành trước những sóng gió va vấp của cuộc đời, và vì chị anh bất chấp tất cả, cùng chị xây dựng mái ấm hạnh phúc trong cùng niềm tin Kitô giáo. Chị còn mong gì hơn thế nữa khi Chúa đã ban cho chị bao nhiêu là hạnh phúc ngọt ngào. Chị không chỉ yêu chỉ biết ơn anh mà còn vô cùng trân trọng anh, người bạn đời lý tưởng của đời chị. 

Sự trở về của Hưng làm anh bối rối, rồi tin hai người gặp nhau làm anh rụng rời. Anh không tin vào mắt mình khi chị, người vợ anh yêu thương đang nằm gọn lòng bàn tay trong tay Hưng, dù khoảng cách giữa hai người được chiếc bàn nhỏ ngăn đôi. Nỗi lo sợ mất đi những gì quý giá anh đang xây đắp khiến lòng anh khắc khoải, ai hiểu cho anh khi anh đang phải đứng giữa tột cùng nỗi đau của sự phản bội. 

Bỏ đi giữa trận cãi vả, và cố giữ lòng tự trọng bị phủ lấp bởi cái tôi của mình, anh quyết không về nhà cho đến khi chị xin lỗi và cho câu trả lời thỏa đáng với những gì chị đã gây ra. Mãi chưa thấy chị gọi và sau những giằng co bứt rứt, cuối cùng anh quyết định gặp Hưng, thằng bạn từng là người anh em chí cốt nay là mối lo của anh, để hỏi cho ra nhẽ. 

Trong quán cà phê chiều, hai người bạn cũ gặp lại nhau. Đối nghịch với thái độ bất cần của anh, Hưng đón gặp bạn với cả sự vui vẻ, và chứa đầy trong đôi mắt thâm sâu sau lớp kính cận dày là sự ngưỡng mộ. Tuy nhiên, sau khi nghe anh hỏi về chị, Hưng chuyển từ bất ngờ sang tức giận mà ném thẳng vào anh một tràng dài: 

- Mầy là thằng tồi… Sao mầy lại nghi ngờ Dung? 

- Cô ấy đã đến với mầy với một tình yêu trọn vẹn mà mầy… 

Thật sự, Hưng làm anh từ bất ngờ bối rối đến xấu hổ. Nghe Hưng giải thích anh mới biết, thì ra họ tình cờ gặp lại nhau rồi chỉ nói chuyện. Hưng báo anh quyết định ở lại Nhật, và sắp lập gia đình. Gặp lại Dung là cơ hội để Hưng nói lời xin lỗi tuy muộn màng. Dung cho Hưng một cái nắm tay tha thứ, một nụ cười mãn nguyện rằng giờ chị rất hạnh phúc bên gia đình nhỏ, và tin anh chị sắp đón đứa con đầu lòng, niềm vui mà sau khi gặp Hưng chị sẽ cho người chồng quá ư bận rộn của chị biết. Hưng vẫn nhớ mãi nụ cười hạnh phúc thoảng chút bối rối và hồi hộp của Dung khi nói với Hưng chị đang mang thai. 

Hưng cáo anh về trước sau cuộc gọi điện thoại. Để lại anh ngồi thừ trong quán cà phê, để lại anh sự hối hận vì sự bồng bột nóng nảy, và để lại cho anh cả không gian đặc quánh, chậm thật chậm trôi… 

* * * 

Nắng như già hơn, khô rát hơn khi chị từ xe bước xuống con đường nhỏ dẫn về ngôi nhà quen thuộc. Cảnh vật không mấy thay đổi, vả chăng chỉ cũ hơn, già hơn thanh xuân rực rỡ của chị nơi Đà thành năng động. 

Chị về đến nhà, đoán chắc giờ mẹ đang bận rộn với lũ ngan, lũ gà. Tuổi già, mẹ chị giờ an yên rồi nhưng với tính khí xưa nay của mẹ, bà chẳng chịu ở không nhàn rỗi, để rồi không trồng khóm cải, dàn bầu, thì là chăn ngan, nuôi gà, làm thêm nước mắm. Mà lạ thiệt, lúc nào bà cũng vui vẻ, lạc quan và đầy nhựa sống mới hay chứ! Lắm lúc chị không khỏi tò mò trước nhịp sống bình yên của mẹ thì bà sẽ luôn vậy, đáp lại đơn giản: “Chúa cho tao sức khỏe để làm việc, cho tao lành lạnh, cho đủ ăn thì còn gì mà không vui sống. Tụi trẻ bây bon chen, sống vội vội vàng vàng chứ gì đã vui hơn tao!” 

Tự dưng chị không còn nghĩ sẽ nói cho mẹ nghe chuyện của mình nữa, mẹ mà hỏi thì chị sẽ bảo về với mẹ vài ngày rồi đi, để mẹ thôi lo lắng, thôi bận lòng về con gái. 

Chị đẩy cánh cổng bước vào nhà, đặt đồ đạc xuống rồi gọi mẹ: 

- Mẹ ơi! Con về rồi… 

- Mẹ… e… ẹ… 

Ở ngoài vườn, vừa nghe tiếng chị, bà vội chạy vào quên cả rửa tay. 

- Chà! Bây về thăm tao à bây, lạ nghe! Thằng Khải đâu? Về chơi một mình à con? 

- Mẹ làm chi đó?- Chị hỏi lại mẹ giờ đang xoắn xít vui mừng trước sự hiện diện của con. 

- Mẹ cho ngan ăn, chừ chúng đông, ăn tấn lên nhanh lớn lắm. 

Rồi mẹ chị tiếp: 

- Thôi con cất đồ đạc, chờ mẹ cho ăn nốt rồi mẹ vào. 

- Dạ. 

Dung hít hà mùi nhà quen thuộc, cảm giác mới thật thảnh thơi làm sao. Rồi chị lê đồ đạc vào phòng mẹ, khi đi qua phòng khách, chị nhìn lên khung hình cưới vợ chồng chị, bất giác chị lại thở dài. 

Vừa rửa mặt, chị vừa hỏi mẹ đủ chuyện: Hỏi tình hình chân mẹ có còn nhức không, chuyện hàng xóm, chuyện gà chuyện ngan… như thể lâu lắm rồi hai mẹ con mới trò chuyện. Mẹ chị vừa cho ngan ăn vừa vui vẻ chuyện về qua lại. Có chị về hôm nay nhà vui hẳn. Đêm nằm, hai mẹ con tâm sự nhiều điều, nhớ lại những chuyện xưa ùa về trên xe, chị hỏi mẹ: 

- Mẹ, hồi đó mẹ xuống Long Hải có thấy ba không mẹ? Mà sao mẹ về một mình vậy mẹ? 

Mẹ không trả lời chị ngay mà hỏi lại. 

- Hai đứa bây có chuyện gì rồi phải không? 

Chị không đáp, tay luồn qua ôm trọn mẹ, hệt hồi nhỏ. Nhìn xa xăm, mẹ chậm rãi kể chị nghe, như lần nữa sống lại những tháng ngày tồi tệ đó. 

- Khi thằng cu Hải đau, mẹ giận ba ghê gớm, thư đi, lời nhắn mà không một lời phản hồi từ ba bây. Mẹ buồn mẹ tủi rồi không ai sai khiến, mẹ khăn gói xuống tận Long Hải tìm ba. Đúng như người ta nói, ba giờ quấn quýt bên cô Út con ông chủ ghe, cô ta khá xinh đẹp, trẻ trung, lại say ba con như điếu đổ. Mẹ đứng sững sờ nhìn hai người sau mấy ngày lần mò dò hỏi. Mẹ không bao giờ quên cái sự bối rối của ba khi bất ngờ thấy mẹ, ba bỏ tay cô ta ra như biện minh cho hành động xấu xa đáng xấu hổ của mình. Chờ có thế, mẹ những tưởng ông sẽ cầu xin mẹ tha thứ rồi trở về với mẹ con ta, nhưng không ba con bảo mẹ về đi. 

Ngày đó, mẹ coi như ba không còn tồn tại, nỗi đau đớn đó mẹ chịu được, mẹ vượt qua được là vì mẹ nghĩ mình còn hai đứa con. 

- Rồi mẹ con mình về Quảng Bình, rồi chẳng bao giờ mẹ nhắc đến ba… Rồi mẹ đánh thằng Hải đến tím mông khi mẹ biết nó đang định trốn đi tìm ba theo chú Hệ… Mẹ cứ nghĩ cả đời này sẽ chẳng tha thứ cho ba con nhưng nước mắt chẳng bao giờ chảy ngược, ba năm sau thấy ba còn về quê tìm mình, mẹ không cầm lòng được. Rồi ba với mẹ lại sống bên nhau dù không còn mặn nồng như trước, nhưng sống là còn vì tình nghĩa, vì bí tích hôn nhân bất khả phân ly mà khi lấy nhau ba mẹ đã khấn hứa với Chúa. 

Chị khóc, nước mắt như chực tuôn từ khi nào. Chị kể mẹ nghe tất cả và không quên trách rằng tất cả là tại anh, tại anh chẳng tin chị, anh cứng nhắc, ghen bóng ghen gió… 

Mẹ chị ôn tồn cho chị hay lỗi từ cả hai bên. Rằng chị sao không từ từ giải thích cho anh hiểu mà lại giận hờn. Anh quá yêu chị nên mới ghen, rồi mẹ khuyên chị hãy nhún nhường gọi điện xin lỗi anh, cho anh một lời giải thích. 

Với cái tính ương ngạnh háo thắng hồi giờ chị chẳng dễ dàng nhận lỗi về mình, xong lần này lại khác. Đây không còn là chuyện để cho tính trẻ con chi phối, điều quan trong chị cần làm bây giờ là giữ được hạnh phúc gia đình, chị còn đứa trẻ chưa chào đời và chị cần anh. Mẹ đã sẵn sàng tha thứ cho ba dù ông rõ ràng phạm lỗi công khai khó để tha thứ, huống hồ trong hoàn cảnh của chị, anh chỉ vì yêu mà hiểu lầm, mà ghen. Chị cần giải thích cho anh hiểu, chị cần làm rõ mọi chuyện và chị cần anh tin chị. Có niềm tin vào nhau thì dầu có xảy ra chuyện gì đi nữa, cả hai sẽ dễ dàng vượt qua để bảo vệ hạnh phúc gia đình. Đến đây, Dung thấy bình an hơn. Nhìn mẹ Dung thầm nghĩ: Hạnh phúc cũng mong manh, dễ hư, dễ mất vẻ ngon lành, tươi đẹp như những củ khoai treo lủng lẳng nơi gian bếp. Nếu không biết trân trọng mà thưởng thức vị ngọt của khoai, vị béo từ những gì nó đem lại, thì theo thời gian phí hoài nó sẽ không giữ được nguyên trạng ban đầu, mà thay vào đó là sự xù xì, xấu xí đáng vứt đi mà thôi. 

Rồi chị quay sang ôm ngang bụng mẹ thỏ thẻ: 

- Dạ, con biết phải làm gì rồi mẹ ạ! Thôi mẹ con ta ngủ đi, mai ăn trưa xong con về. 

* * * 

Về đến nhà thì trời đã chập tối, mệt mỏi rã rời sau chuyến xe, chị vào thẳng chiếc giường quen thuộc, đánh một giấc quên cả thời gian. 

Anh về nhà lúc nào chị không biết, thức dậy, chị thấy sẵn bữa sáng còn anh vẫn mãi miết với việc dọn dẹp trong bếp. Thấy chị đang ngồi ngạc nhiên bên bàn ăn, anh tằng hắng: 

- Từ nay anh sẽ lo bữa sáng, chiều làm về anh sẽ tranh thủ tạt qua cửa hàng đón em. Mà anh cất mấy đôi gót vào ngăn tủ rồi.- Anh nói một tràng như sợ chị ngắt lời. 

- Bức hình Thánh Gia anh mới mua à? 

- Ừm…m... Hì…- Anh gãi đầu cười xòa. 

Trong cái nắng mới của ban mai, họ nhìn nhau, rồi cùng nhìn lên bức hình Thánh Gia và cùng chờ thành viên thứ ba chào đời.
* Maria Lê Thị Quỳnh Nga (Gx.Tuy Hòa)


Bài thơ là những tâm tình
Đưa ta đến với gia đình yêu thương
Dù ai ở khắp muôn phương
Họp nhau nơi chốn thiên đường Đồng Xanh
Với bao lí tưởng trong lành
Lời Chúa vang vọng âm thanh gọi mời

Bạn trẻ giáo xứ ta ơi!
Biến tình yêu Chúa nên lời thơ ca
Đem niềm vui đến mọi nhà
Giao duyên hội ngộ mãi là anh em.
Vườn tượng danh nhân, bệnh viện phong Qui Hòa

NHỮNG CÂY DỪA CONG 



(Mã số: 18-085)


1. 


Cơn bão số 8 đổ qua Qui Hòa đã mấy ngày rồi. Dấu vết của nó vẫn còn tràn lan khắp xóm. Nhà cửa, cây cối ngã ngang ngã dọc. Từ nhà thờ cho đến nhà dân, từ ngoài biển cho đến trong xóm, đâu đâu cũng ngổn ngang cây cối. Vườn tược nhà ông Hai cũng chung số phận. Mấy ngày nay ông và con trai cặm cụi dọn dẹp nhưng chưa xong. Sáng hôm nay, ông đứng nhìn đống cây mà ngao ngán. Việt đứng bên cạnh ông, tròn xoe mắt hỏi. 

- Ông ơi! Sao mấy cây dừa của nhà mình không bị ngã, ông nhỉ? 

Ông Hai nhìn Việt rồi đưa bàn tay chỉ còn lại mấy ngón cùi cụt xoa đầu nó. 

- Tí này! Con có biết tên của mấy cây đang bị ngã không? 

- Dạ biết! Cây ổi, cây xoài, cây me, bụi tre… nhiều lắm con đếm không hết. 

- Thế trong vườn nhà mình còn lại cây gì nào? 

- Dạ, chỉ còn mấy cây dừa cong cong nghiêng ngửa thôi! 

- Không phải! Chúng không có nghiêng ngửa đâu con. Chúng vẫn xanh tốt đấy chứ! Năm nay bão lớn mà chúng không ngã, chứng tỏ gốc của chúng rất chắc. Đó là kết quả của mấy lần ngã rồi đó con… Trước đây, khi con còn chưa sinh ra, mấy cơn bão lớn đã làm chúng chỏng gốc. Ông đã dựng chúng dậy và chúng cứ mọc cong cong như thế cho đến nay. Chúng chẳng bao giờ ngã nữa Tí à! 

Việt ngạc nhiên nhìn ông. 

- Chúng bị ngã rồi sao ông?… A ha! Chúng ngã nên không ngã nữa... Chúng cũng giống như con tập đi xe đạp vậy. Ngã rồi nên không ngã nữa phải không ông?
- Ừ, đúng rồi đó con! Nhờ ngã mà con sẽ không ngã nữa. Con sẽ trưởng thành hơn. Lớn lên con sẽ hiểu… Nhưng con phải cẩn thận hơn đấy. Lần sau con sẽ ngã đau hơn đấy! 

- Dạ, con biết rồi ông ạ! 

Năm đó, cũng vào mùa bão, con dâu ông Hai chuyển dạ. Cả nhà lo lắng. Trung, đứa con trai duy nhất của ông phải lặn lội ra bệnh viện phong nhờ họ lấy ôtô chở vợ ra bệnh viện tỉnh. Trong mưa, cả nhà khổ sở đưa con dâu lên xe rồi chuẩn bị đồ đạc đi theo nuôi đẻ. Khổ thân Trung, anh những mong vợ sinh vào ngày nắng ráo cho đời đỡ cực. Thế mà vợ anh lại sinh sớm hơn. Mấy ngày nay, tự nhiên mắt anh cứ nháy liên hồi. Anh nghĩ chắc nhà mình có chuyện, nhưng công việc ở xưởng cơ khí lu bu nên quên luôn cho đến khi nghe tiếng rên đau của vợ. Trung vừa mừng vừa lo. Đứa con đầu đời, đứa cháu đích tôn, cho nên phải làm sao “mẹ tròn con vuông”. Đang khi xe chạy trong mưa, miệng anh thì thầm khấn nguyện xin Chúa thương trợ giúp. Trung nắm chặt tay vợ, đặt trọn niềm tin tưởng và tiếp sức cho nàng. Trung thì thầm vào tai vợ: “Cố lên em yêu! Chúa và Mẹ Maria sẽ giúp sức cho em!... Vững tin lên em ơi!”. Nói xong, anh bật khóc như con nít… 
Xe chưa kịp đến bệnh viện, vợ Trung đã sinh. Một đứa con trai thật kháu khỉnh. Một đứa con như ước nguyện của đôi vợ chồng trẻ. Trong mưa, sự sống đã được sinh ra như ý Chúa muốn. Sự sống ấy chính là Việt, thằng Tí của ông Hai, niềm hy vọng tương lai tươi sáng của cả gia đình. 

Ông Hai đưa cả hai bàn tay không còn nguyên vẹn ôm lấy Việt thật lâu. Ông xoa xoa vào lưng nó rồi hôn vào mái tóc mỏng manh của nó. 

- Thôi! Con vào nhà chơi đi. Để ông đi dọn mấy cái cây ngã cho sạch sẽ. Ông dọn bữa nay nữa chắc là xong. Con sẽ có sân để tha hồ tập đi xe đạp. 

- Dạ! Con cảm ơn ông... 

Nghe tiếng bố ngoài sân, Trung ở trong nhà bước ra, nhìn thấy bố đang vác rựa đi ra vườn thì nói. 

- Bố vác rựa đi đâu thế? 

- Ừ, bố ra vườn dọn dẹp mấy cái cây cho thoáng cái vườn. Dọn nhanh để còn kịp trồng rau bán tết nữa chứ! 

- Dạ, bố để con làm cho! Hôm nay con dọn một buổi nữa là xong. Chiều mát bố và mẹ ra làm đất trồng rau cũng được. 

- Thôi! Để bố đi làm với con cho vui. Ở trong nhà lâu ngày cũng buồn tay buồn chân. Mấy bữa nay mưa gió, cứ bó gối ngồi trong nhà, tay chân bố cứ cứng đờ ra. 

- Dạ! Bố và con cùng làm nhưng bố phải làm vừa sức thôi nhen! Bệnh khớp của bố vẫn chưa khỏi đâu đấy! 

Trung quay sang bảo thằng Việt đang ở trong nhà. 

- Tí ơi! Lấy cho bố cái nón đi con. Nhanh lên!... 

Thằng nhỏ chạy vào trong buồng. Một thoáng nó chạy ra. 

- Thưa phụ hoàng, nón của phụ hoàng đây ạ!... 

- Giỏi! Tí của bố giỏi quá… Chỉ biết bắt chước trong phim không à nghen! 

- Dạ... 


2. 


Thế là cả buổi sáng hôm ấy hai bố con hì hục chặt trái chặt phải tất cả những cây bị ngã. Phần thì làm củi đun, phần thì chất đống để cắm chái trồng đậu trồng cà. Lá của chúng chất lại thành từng đống lớn chờ cho khô rồi đốt. Tất cả khu vườn bây giờ trống trơn chỉ còn lại hàng dừa cong cong vẹo vẹo dọc theo hàng rào. Vì thế nắng chói chang khắp mọi nơi. 

Hai bố con dọn xong khu vườn, trời đã đứng bóng. Mồ hôi mồ kê chảy tràn khắp người, từ trên đầu cho đến dưới chân đều ướt sũng. Hai bố con nhìn nhau tươi cười. Khuôn mặt không còn lành lặn của ông Hai càng méo mó thêm. Thế nhưng khuôn mặt ấy vẫn luôn hạnh phúc vì Trung. 

- Con thấy không... Tay rựa của bố vẫn còn ngọt lắm. Con coi nhát nào nhát nấy chắc và đi êm ru à! 

- Dạ, bố khỏe thật! Con chịu bố luôn đó. Sức dẻo dai của bố chẳng ai sánh bằng. Làm gì đó nhanh nhanh thì con còn chịu được chứ làm lâu dài chắc con chết mất! 

- Cái gì cũng từ từ chứ con! Con nhìn mấy cây dừa bố trồng đấy. Chúng đã sống với bố và mẹ mấy chục năm rồi. Chúng ngã rồi lại đứng và bây giờ thì chúng chẳng ngã nữa. Bởi chúng đã biết cong theo nhịp gió bão của vùng đất gần biển này rồi. Con cũng phải biết làm việc một cách từ từ và dẻo dai như chúng thì mới mong thành công. 

- Dạ, con biết! Nhưng mà khó lắm bố nhỉ!... Cái nghề thợ hàn của con cũng đòi hỏi tỉ mỉ lắm đấy. 

- Ừ, bố chọn nghề cho con cũng để rèn tính nóng nảy của con đó! Con ráng làm để nuôi vợ nuôi con nghen. 

- Còn để phụng dưỡng bố mẹ nữa chứ! 

- Ừ! Thôi mình vô nhà tắm rửa rồi ăn cơm đi con! 

Hai bố con bá vai nhau đi vào trong nhà như hai người bạn. Có điều dáng của ông Hai thì thấp hơn Trung và có vẻ khập khiễng. Chân của ông bị bệnh phong hành hạ suốt 12 năm. Ngày đó, ông là một thanh niên trai trẻ tuấn tú giỏi nghề giỏi nghiệp. Thế nhưng một hôm ông thấy tay chân của mình có những đốm trăng trắng. Mấy ngày sau lại chuyển sang đo đỏ rồi chảy nước ra liên hồi. Nó cứ lớn theo thời gian và càng ngày càng lan ra. Ông đi khám và biết mình bị bệnh phong. Ông thất vọng và lầm lũi xa tránh mọi người. Được biết trong Qui Hòa có trại phong do các Dì Phan Sinh coi sóc, ông đã xin gia đình vào ở hẳn trong đó. Thế là vùng đất Chánh Thạnh trở thành dĩ vãng, bởi vì ông chẳng bao giờ trở về đó nữa. 

Ở trong trại phong, ông được các Dì chăm sóc chu đáo như người thân. Dần dần ông khỏi bệnh. Và cũng chính nơi đây ông bắt đầu biết Chúa và gặp được bà Hai. Hai người đồng cảnh ngộ đã kết tóc xe tơ. Thế là Trung ra đời. Ông bà mong có thêm đứa nữa cho vui cửa vui nhà nhưng Chúa chỉ cho có mỗi mình nó. Cho nên, hai ông bà yêu quý Trung lắm. Đáp lại, Trung là đứa con ngoan biết lo lắng cho bố mẹ, chăm sóc từng ly từng tý. Mọi việc trong nhà, Trung đều kham hết. Trung biết bố mẹ đã khổ cực nhiều nên muốn bù đắp phần nào cho hai ông bà. Ngày hôm nay, Trung không đi làm để ở nhà dọn dẹp khu vườn cũng vì điều ấy. 


3. 


Hai bố con vào đến trong nhà đã thấy cơm nước sẵn sàng. Từ sáng tới giờ, mẹ và vợ Trung đã cặm cụi lo lắng. Vừa thấy hai cha con bước vào, bà Hai đã giục. 

- Hai bố con mau đi tắm rửa rồi ăn cơm. Trưa rồi đấy! 

- Bà cứ thong thả… Nghỉ chút cho ráo mồ hôi đã. Không khéo thì cảm chết! 

- Ừ, thì cũng nhanh nhanh chứ cơm canh nguội hết đấy! Thằng Tí cũng đói lắm rồi. Nó muốn ăn nhưng lại đợi ông và bố nó. 

- Dạ!... Đi tắm rửa đi bố! Để thằng Tí đợi, tội nó! 

- Ừ, thôi đi tắm rửa mau đi con... Tí đợi ông chút nhé! 

- Dạ! 

Lan Uyên, vợ của Trung, đứng dậy lấy mấy cái khăn tắm đưa cho chồng. 

- Bố và anh cầm cái khăn tắm này dùng nè. Khăn con mới mua đấy. 

Trung đưa tay nắm lấy hai cái khăn từ tay vợ. Ánh mắt Trung nhìn vợ đầy yêu thương. Lần nào nhìn vợ Trung đều có cảm xúc dạt dào như thế. Bởi vì, nhờ có nàng mà Trung mạnh mẽ hẳn lên, không mặc cảm về thân phận của mình nữa. Trung quyết tâm trở thành người con hiếu thảo, người chồng mạnh mẽ để cả nhà tự hào. 

Trung nhớ lại hồi học cấp 3, trong Qui Hòa đâu có trường, vì thế Trung phải lặn lội đạp xe ra thành phố Qui Nhơn để học. Trong lớp, Trung chẳng dám quen biết ai, vì sợ bạn bè biết mình là con người cùi. Trung khép mình, chỉ biết học rồi lủi thủi đi về. Thế nhưng cũng có người để ý đến Trung. Cô bé Lan Uyên ngồi ở bàn trên cứ hay nhìn và hay tìm cách nói chuyện với Trung. Dần dà, hai đứa càng ngày càng thân thiết. Hôm Lan Uyên đến thăm nhà của Trung, nhìn thấy bố mẹ Trung, nàng không cầm được nước mắt. Cũng bắt đầu từ đó, nàng càng gắn bó với Trung hơn. Nàng đã yêu Trung thật lòng. Cho đến lúc hai người lấy nhau, Trung vẫn còn ngỡ ngàng. Trung không nghĩ mình có thể lấy được nàng, vì bố mẹ nàng phản đối kịch liệt. Cho nên, Trung rất yêu vợ, không bao giờ làm cho vợ buồn. 

Hai người tắm rửa xong rồi trở lại bàn ăn. Mọi người đang chờ hai cha con. Việt thấy bố và ông ngồi xuống ghế thì vỗ tay hào hứng. 

- Ông ơi! Làm dấu đọc kinh nhanh đi ông… Con đói bụng quá rồi! 

Bà Hai cười. 

- Cha mầy! Nôn nóng thế!... Thôi làm dấu đi ông. 

Ông Hai ngồi ngay ngắn rồi đưa tay làm dấu. 

- Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần! Lạy Cha chúng con ở trên trời... 

Bữa cơm trưa hôm ấy tràn đầy niềm vui. Tiếng cười, tiếng nói thay phiên nhau vang lên rộn rã. Bên ngoài, gió biển vẫn thổi nhè nhẹ. Hàng dừa lắc lư cành lá. Bầy chim sẻ bắt đầu hót trở lại. 


4. 


Chiều đến, sau khi đi lễ về, ông Hai nói với bà Hai. 

- Tối nay, tôi với bà đi biển một chuyến cho đỡ buồn nghen! 

- Thôi đi ông! Tay chân còn mạnh mẽ gì đâu mà đi cho khổ. Thằng Trung biết được nó la cho đấy! 

- Chỉ có bà mới hiểu tôi mà! Tôi đi biển đâu phải để kiếm chác gì đâu. Tôi nhớ cái mùi biển, nhớ cái cảm giác man mát, bồng bềnh trên sóng nước. Ngày trước bà vẫn thường hay đi với tôi mà… Đi với tôi nhé! 

- Nhưng ông phải nói cho thằng Trung biết nghen! 

- Nói chứ! Để con nó lo, đâu có lợi gì... Tôi biết nó thương tôi với bà lắm nên không muốn cho đi... 

Trung ở trong nhà đã nghe hết câu chuyện của bố mẹ. Mắt ngấn lệ, Trung bước ra nói với bố mẹ. 

- Con biết bố mẹ nhớ biển lắm! Hôm nay trời cũng yên gió. Thôi bố mẹ ăn cơm rồi đi sớm. Khoảng tám giờ tối con sẽ ra đón bố mẹ. Bố mẹ đi cẩn thẩn nhé! Đi gần bờ thôi… 

Ông Hai mừng rơn trong bụng. 

- Bố cảm ơn con... Đi ăn cơm rồi chuẩn bị đi thôi bà!... 

Vừa đến bến cá, ông nói với bà. 

- Năm nay bão dữ dằn quá phải không bà? 

- Dữ thiệt! Từ năm 84 tới giờ chưa có cơn bão nào dữ dằn đến thế. Ông xem kìa! Bao nhiêu gốc dừa mình trồng ba bốn chục năm đều chỏng gốc. Chỉ còn lại mấy cái cây xiêu vẹo này thôi. 

- Ừ phải! Mấy cái cây ngả nghiêng ngả ngửa đó tôi đã thấy nó hồi còn nhỏ. Đến bây giờ, trải qua biết bao nhiêu trận bão mà nó vẫn cứ sống. Lạ không bà! 

- Tôi nghĩ nó cũng như người ông à! 

- Như người? Như chúng ta sao? 

- Ông nói phải đó! Như những người cùi trong trại phong chúng ta… Mỗi người đã trải qua biết bao nhiêu là cay đắng, bệnh tật đau đớn trong cuộc đời nhưng vẫn sống. Cái cây dừa kia chắc cũng nghiêng ngả bao nhiêu lần thì mới có thể đứng vững trước giông bão. Mà nó đâu có đứng thẳng được ông nhỉ! 

- Đúng rồi! Làm sao đứng thẳng được… Nếu nó đứng thẳng thì đã ngã chỏng gốc như mấy cây kia rồi! 

- Mấy cây dừa ấy mà hay quá ông nhỉ! Nó dạy mình biết bao nhiêu điều... 

Hai ông bà bước lên ghe rồi nổ máy chạy thẳng ra khơi. Ông dừng lại ở tầm còn nhìn thấy ngọn tháp nhà thờ Qui Hòa. Ông với bà ngồi sát vào nhau hít thở cái không khí tự do thoải mái của biển cả. Biển đêm nay dịu êm thật! Nó dữ dằn lúc bão tố bao nhiêu thì lúc này lại dịu dàng bấy nhiêu. Trăng bắt đầu lên, gió thổi hiu hiu mát rượi. Lòng hai ông bà man mát về một cõi xa xưa hạnh phúc. Bóng hai ông bà in thành hình trái tim long lanh trên mặt biển. 

Trên bờ, mấy cây dừa nghiêng mình vi vu theo gió và sóng vỗ rì rào.

Cha Ray Kelly, sinh tháng 4 năm 1953 tại Tyrrellspass, Quận Westmeath, Ái Nhĩ Lan là một linh mục Công Giáo nổi tiếng về ca hát. Ngài là linh mục chánh xứ St. Brigid′s & St. Mary ở Oldcastle, Quận Meath.

Cha Kelly trở nên nổi tiếng vào năm 2014 sau khi một đoạn video ngài hát bài hát Hallelujah của Leonard Cohen trong khi cử hành lễ cưới được tung lên YouTube. Đến tháng 4 năm 2018, video này đã nhận được hơn 60 triệu lượt truy cập.

Tuần qua, vị linh mục 64 tuổi đã dự thi trong chương trình Got Talent của Anh với nhạc phẩm Everybody Hurts của REM.


Chỉ trong 4 ngày sau khi video bài Everybody Hurts được tung lên Youtube đã có gần 2 triệu người xem.




Cha Kelly nhận được sự tán thưởng nồng nhiệt từ các giám khảo nổi tiếng khó tình là Simon Cowell và Alesha Dixon, là những người đã mô tả màn trình diễn của ngài là “quá đẹp” và ủng hộ ngài đi tiếp vào vòng bán kết.

Cha Kelly nói: “Tôi biết tôi có thể có một màn trình diễn khá tốt nhưng tôi đã rất ngạc nhiên trước những bình luận của ban giám khảo. Tôi kinh ngạc và khiêm tốn bởi tôi thực sự không mong đợi được như vậy.”

Cha Kelly cũng đã được hoan nghênh nhiệt liệt bởi anh chị em giáo dân vào ngày Chúa Nhật 22 tháng Tư vừa qua sau buổi biểu diễn của ngài.

Everybody Hurts - R.E.M.


When your day is long

And the night

The night is yours alone

When you're sure you've had enough

Of this life

Well hang on

Don't let yourself go

'Cause everybody cries

And everybody hurts sometimes

Sometimes everything is wrong

Now it's time to sing along

When your day is night alone (hold on)

(Hold on) if you feel like letting go (hold on)

If you think you've had too much

Of this life

Well, hang on

'Cause everybody hurts

Take comfort in your friends

Everybody hurts

Don't throw your hand

Oh, no

Don't throw your hand

If you feel like you're alone

No, no, no, you're not alone

If you're on your own

In this life

The days and nights are long

When you think you've had too much

Of this life

To hang on

Well, everybody hurts sometimes

Everybody cries

And everybody hurts sometimes

And everybody hurts sometimes

So, hold on, hold on

Hold on, hold on

Hold on, hold on

Hold on, hold on

Everybody hurts

You are not alone 

Lời Việt của bài Everybody Hurts


Khi ngày quá dài và đêm thật cô liêu. Khi bạn đã quá ê chề trong cuộc đời này. Bạn ơi. Đừng buông xuôi. Vì mọi người ai chẳng từng khóc. Và đôi khi cũng khổ đau.

Đôi khi chuyện đời cũng có lúc sóng gió. Đó là lúc để hát cùng nhau. Khi đời là đêm tối cô đơn. Hãy đứng vững nếu bạn muốn buông trôi. Nếu cảm thấy quá ê chề trong cuộc đời này rồi. Hãy khoan. Vì trong cuộc đời này ai chẳng từng khổ đau. Hãy tìm kiếm niềm ủi an nơi những người bạn. Ai cũng khổ đau mà. Đừng buông tay nhé. Nếu bạn cảm thấy chỉ có mình là khổ đau. Không, không đâu. Không chỉ có một mình bạn đâu. 

Khi bạn cảm thấy cô đơn trong cuộc đời này. Khi ngày và đêm đều quá dài. Khi cảm thấy quá ê chề trong cuộc đời này rồi. Bạn ơi, ai cũng có lúc khổ đau. Ai cũng có lúc khổ đau mà. Hãy đứng vững nhé. Hãy đứng vững nhé. Hãy đứng vững nhé. ai cũng có lúc khổ đau. Không chỉ có mình bạn đâu.

(vietcatholic.org)



TRẺ CHĂN BÒ XÓM ĐẠO


(Mã số: 18-084)

1. 


Hai giờ chiều, trời đã bắt đầu chuyển sang gió bấc. Gió cứ thổi ngược con đường đi ra cánh đồng. Ai đi ngang qua cũng có cảm giác xiêu vẹo. Ban nhìn ra con đường và thấy rùng mình theo từng cơn gió rít. Nó chỉ muốn ở nhà cho qua những ngày gió mùa đông bắc. Nhưng mấy con bò trong chuồng cứ kêu rông rống. Chúng nhớ cánh đồng rộng mênh mông vào mùa để hoang. Ở đây, vào mùa này, người ta hay để ruộng hoang cho đến cuối đông mới gieo cấy lại. Cho nên, cả cánh đồng rau cỏ mọc xanh mơn mởn. Mấy con bò nhớ cánh đồng cũng phải lắm! Đã ba bốn ngày nay, chúng chỉ nhai rơm khô. Nhai cái thứ khô khốc ấy hoài cũng chán! Chúng thèm được rong chơi và gặm cỏ xanh. Thế nhưng trời lại rét quá. Chúng không rét sao nhỉ? Ban muốn bỏ qua tiếng kêu của chúng cho êm chuyện. Nhưng Ban lại thấy thương chúng quá. Bò cũng có tình cảm mà! Thế là Ban quyết định thả cho chúng đi thong dong một chút. Ban lấy quần áo ấm mặc vào rồi bước ra chuồng bò. Ban nói với mẹ. 

- Mẹ ơi! Con đi chăn bò đây. Năm giờ chiều con về. Cho chúng đi một chút cho chúng thong dong chân cẳng. 

- Ừ, nhưng nhớ mặc cho ấm vào nghen con! 

- Dạ! Con biết rồi... 

Ban đội nón đi ra chuồng bò sau nhà. Trong đầu, Ban định đi qua rủ thằng Thịnh và con Linh với con Liễu đi chăn luôn cho vui. Dù sao thì ra đồng cũng có người nói chuyện cho đỡ lạnh. Ban đến cửa chuồng bò, rút thanh chắn cửa và lùa bò ra ngoài. 

- Ọ, ọ, ọ… Ra con! Nhanh lên! 

Đàn bò lần lượt từng con đi ra khỏi chuồng và hướng ra con đường cái. Mấy con nghé nhỏ được tự do nên nhảy đần đận. Con bò cái Mun đang chửa bụng rất to. Nó bước đi nặng nhọc. Con đực Rỏ hếch mũi lên rống liền mấy hồi. Nó tỏ rõ bản lĩnh cầm quân. Mấy con còn lại cứ lầm lũi đi. Ban cầm chiếc roi mây đi theo sau. Đi đến nhà thằng Thịnh, Ban hú lớn. 

- Hú, hú, hú… Thịnh ơi! Đi chăn bò cho dzui… 

- Hú hú hú… Chận bò mầy lại chờ tao chút. 

- Ừ, nhanh lên! Còn qua nhà rủ con Linh và con Liễu nữa. 

Thịnh mặc quần áo dài tay, đội chiếc mũ trùm, tay cầm bị khoai lang rồi chạy nhanh ra chuồng bò. Nó mở cổng lớn hết cỡ rồi cầm phèng la đánh mạnh mấy cái. Đàn bò nghe tiếng động, tranh nhau túa ra ngoài. Chúng xô đẩy đến trầy da tróc vảy. Mấy con bò nghé chỉ biết chạy theo sau kêu la om sòm. Thế là nó khoái chí cười toe toét. Ra tới cổng, nó đã nói khích Ban. 

- Ê, “xách cà mèn đi xin thịt chó” gì sớm dữ mầy? 

- Ê, hỗn mầy! Có thịt chó mới có mầy ăn chứ! Mà mầy đời nào dám đụng vào mấy thứ ấy. Tao thách mầy cũng không dám. Thần thánh bẻ cổ cái rụp liền! 

- Chứ tao nói không đúng sao mà mầy quẹo lại. Chẳng phải bên đạo mầy cứ hay làm thịt chó ăn sao? Tết, chó. Giỗ, chó. Thôi nôi, chó. Sinh nhật, chó. Đủ thứ chuyện đều làm chó ăn thịt hết. 

- Bậy mầy! Chứ mầy có thấy khi nào nhà tao làm thịt chó ăn không? Người ta thích thì ăn thôi. Còn nhà tao, bố mẹ tao thương mấy con chó lắm. Ổng bả nuôi cả bầy luôn. Mầy nói thế không khéo đạo của tao là đạo thịt chó à! 

- Ừ, đạo thịt chó chứ còn nói gì! 

- Tao cốt vỡ đầu mầy chứ ăn nói láo xược!... Chiều nay, mầy cứ ra quán thịt cầy của ông Tuấn chó coi thì biết ai ăn thịt chó nhiều hơn. Toàn là dân đàng lương không! Nhà mầy không ăn thịt chó nên chẳng biết gì hết. 

- Thôi được! Chiều nay tao ra xem là được chứ gì. Đừng giận nhé bạn tốt... 

- Ừ, nói dzậy còn nghe được! 

- Thôi bỏ qua! Tới nhà của hai chị em Linh-Liễu rồi kìa! 

Trước mặt Ban và Thịnh là căn nhà xây mái ngói khá khang trang. Tuy hơi cũ một chút nhưng cũng khá hơn những nhà trong xóm. Đó là nhà của chị em Linh và Liễu. Gia đình hai đứa vốn không phải ở đây. Nhà ở tận Nha Trang kia! Bố mẹ chúng lấy nhau rồi lập nghiệp trong đó. Những năm gần đây, gia đình làm ăn sa sút nên phải trở về quê. Căn nhà gia đình chúng đang sống là của ông nội để lại. Lần này về quê, bố mẹ chúng quyết tâm làm lại từ đầu. Cho nên, còn bao nhiêu vốn liếng, họ đem mua mấy con bò để cho hai chị em chăn. Cũng nhờ chăn bò mà hai chị em biết được Ban và Thịnh. Cho nên, cứ mỗi chiều chiều cả bốn đứa đi chăn bò chung với nhau. 

- Linh Liễu ơi! Đi chăn bò nào... 

- Dạ! Hai anh chờ chúng em chút xíu... 

Hai chị em lấy áo gió mặc vào, choàng thêm khăn che kín đầu rồi đội nón đi ra chuồng bò. Linh đến trước cửa mở từng thanh ngang cửa chuồng còn Liễu đuổi từng con ra. Hai chị em thích mấy con bò của mình lắm. Cho nên, cả hai đã nghĩ ra nhiều cái tên mỹ miều đặt cho mấy con bò. Nào là Hồng Nhạn, Bạch Hạc, Xinh Mun, Kim Cương, Kỳ Lân… Con nào con nấy đều sạch sẽ hồng hào dễ thương chứ không giống như mấy con bò hom hem của Thịnh. 

- Ọ, ọ, ọ… Nào, ra nào mấy em!... 



2. 


Cả ba bầy bò nhập đàn vào nhau hơn hai chục con. Chúng đi thành hàng dài trên con đường từ làng dẫn ra đồng. Cả bốn đứa cũng nhập vào nhau nói năng ríu rít. Gió vẫn cứ thổi liên hồi làm cho tiếng nói của chúng lạc đi, lúc được lúc mất. Chúng nói đủ thứ chuyện trên trời dưới đất cốt để cười cho thỏa thích và ngăn bớt cái lạnh đang cắt da thịt của chúng. Trong nhóm, Thịnh là người lém lỉnh nhất. Cái miệng nhỏ xíu của nó cứ liến thoắng. Nó kể hết chuyện nuôi mấy con gà nòi, đến chuyện bắt cá câu lươn, cả chuyện nó bắt gà bẻ bí người ta nữa. Ba đứa kia cứ há miệng ra nghe nó nổ, không quan tâm đến thật hay giả. Miễn vui là được! 
Ban cũng không kém gì Thịnh. Cái tướng to, trông có vẻ chậm chạp nhưng đủ thứ chuyện trên đời. Chuyện trốn học, chuyện đề đóm cá độ, chuyện đá gà, chơi cá, chơi cây cảnh, chơi đồ cổ… nó đều biết hết. Nó nói y hệt như nó đang chứng kiến và kể lại sống động như đang xảy ra trước mặt. Nó đưa tay múa chân làm điệu bộ khi kể những chuyện có tình tiết gay cấn. Chỉ có hai chị em Linh-Liễu là hai khán giả trung thành của hai anh chàng “nổ”. Nổ mà lấy được nụ cười của hai đứa con gái cũng oai lắm rồi! Cứ thế cả bốn đứa cứ ríu rít đi theo đàn bò. 

Khi đến chỗ ngoẹo nhà ông Ba Thấu, cả bốn đứa ngây ngất với mùi thơm của mấy cây ổi. Thịnh nhanh nhảu hít hít mấy cái rồi đưa ra đề nghị táo bạo. 

- Mấy đứa bay đứng đây canh chừng… Để tao chui vào hái ít trái chút nữa ra đồng ăn. Nhanh thôi! Nghề của tao mà. 

Linh can: 

- Ấy chết! Anh Thịnh tính ăn trộm thiệt sao? Có tội nặng đó! 

- Tội gì! Hái mấy trái ổi thôi chứ có trộm cắp gì lớn đâu. 

Liễu chen vô: 

- Hái ổi cũng là ăn trộm mà! Anh Thịnh không học điều răn Phật dạy sao? 

- Con nhỏ này vẽ chuyện! Em không thương anh nữa hay sao mà cứ nói ra không à! Anh hái ổi để cho em đó. 

Con Liễu đỏ mặt. 

- Thương?... Nhưng anh đừng ăn trộm được không? Để em vào xin Bác Ba mấy cái là được chứ gì! 

Bây giờ Ban mới lên tiếng. 

- Mấy đứa bay bàn lôi thôi quá! Im đi để thằng Thịnh chui vào hái vài cái là xong. Xin xỏ gì cho lôi thôi. Với lại ông Ba Thấu trồng ổi chứ đâu có ăn. Ổng trồng cho vui thôi. Thịnh, nhanh lên mầy. Để tao canh ổng cho. 

- Ừ, tao chui vào đây. Im lặng hết đi nghen... 

Trong khi đàn bò vẫn tiếp tục đi ra đồng thì Thịnh rón rén vạch hàng rào chui vào trong vườn. Nhanh như sóc, nó phóc lên cây ổi nhẹ nhàng và bắt đầu hái. Từng trái ổi to bằng chén cơm, trắng nõn và thơm phức được Thịnh ném ra cho Ban chụp. Con Linh và con Liễu lấy nón đựng. Mới mấy phút mà hai cái nón đã đầy ổi. Con Linh mới gọi nhỏ. 

- Anh Thịnh ơi! Ra nhanh đi, đủ rồi. Nhiều quá ăn phát kiết đó. 

- Ừ, mấy trái nữa thôi... 

Thịnh cố chuyền cành để hái cái ổi to nhất cho con Liễu thì cành ổi gãy làm nó ngã mạnh xuống đất. Bây giờ, ông Ba Thấu mới chạy ra. Đúng ra, ông đã biết ngay từ lúc Thịnh chui vào. Ông đã định bắt tất cả bốn đứa đem đi mắng vốn bố mẹ chúng nhưng ông lại thấy thương nên thôi. Trẻ con mà, chúng thèm chua thèm ngọt chút đỉnh thôi, phá phách chút đỉnh thôi. Lớn lên chúng sẽ hiểu phải làm gì cho phải đạo! Cho nên, ông chỉ đứng nhìn chúng rồi mỉm cười, bởi ông đã một thời như chúng. Tuy nhiên, cú ngã của Thịnh đã làm ông giật mình. Ông phải chạy ra xem thằng nhỏ có bị sao không. Tiện đó, ông dạy cho chúng biết chuyện. Ông vừa đến nơi đã thấy Thịnh nằm đau đớn còn mấy đứa kia thì hết hồn hết vía. Thịnh đang lồm cồm đứng dậy thì bị ông túm cổ. 

- Đứng im! Cha cha… hôm nay ông bắt được thằng trộm đây rồi! Nhà ông cứ mất trộm ổi hoài mà không túm được đứa nào… Thằng Thịnh! Mầy hái trộm ổi của ông mấy lần rồi?... 

- Dạ, ông Ba! Chỉ là lần đầu thôi ạ! 

- Lần đầu à… Mầy có biết cái tội lần đầu là gì không? Tội tổ tông đó! Tội ấy còn nặng hơn cả tội hái trộm ổi nữa đó. 

- Dạ! Con không biết ạ! 

- Không biết cũng phải! Mầy bên Phật mà! Chứ còn mấy đứa kia… Thằng Ban, mầy đừng nói là không biết nghen! Trong mười điều răn, điều thứ bảy Chúa dạy chớ lấy của người, còn điều thứ mười Chúa lại dạy chớ tham của người. Tao biết mầy học hết đó nghe chưa! 

- Dạ! Con chỉ biết Thương người có mười bốn mối. Thứ nhất cho kẻ đói ăn thôi à! Chúng con đói lắm ông Ba ạ! 

- Mầy nói giỏi lắm! Đói là cứ đi ăn cắp của người ta sao? 

- Dạ! Chúng con đâu có đi ăn cắp đâu ông Ba. Chúng con thèm mấy trái ổi quá nên liều lĩnh thôi! Ông Ba tha cho chúng con nghen? Lần này thôi ông Ba! 

Con Linh cũng sụt sùi theo. 

- Ông Ba tha cho chúng con nghen ông Ba!... 

Con Liễu nói thêm. 

- Dạ! Con đã bảo anh Thịnh vào xin ông Ba, đừng có trộm. Thế mà ảnh không nghe… Ông Ba nhân từ, ông Ba tha cho chúng con nghen ông Ba! Đây là số ổi chúng con đã hái trộm của ông Ba nè! Chúng con xin trả lại cho ông Ba. 

Bây giờ, Thịnh mới hết đau. Nó khẩn khoản nài xin. 

- Ông Ba tha cho con! Con trót dại… Chỉ biết thể hiện thôi. Con cũng được bố mẹ dạy không được ăn cắp ăn trộm của cải của người ta. Con là một Phật tử và ngày ngày thầy con cũng dạy con đừng lấy gì của ai mà chưa hỏi ý kiến của họ. Ông Ba tha cho con, con biết lỗi rồi! 

Ông Ba Thấu nhìn mấy đứa nhỏ có vẻ hối lỗi nên cũng mủi lòng. Vốn dĩ ông đã định để cho chúng nó đi nhưng chuyện thằng Thịnh bị ngã làm ông phải suy nghĩ. Chúng nó còn non nớt quá, cứ làm theo ý thích của mình mà không được ai dạy dỗ bảo ban thì thế nào cũng hư hỏng. Chẳng hạn như thằng Thịnh mà ngã xuống từ một cây cao hơn chắc khốn cho nó. Chỉ vì một chút ham vui mà đánh mất cuộc đời thì không nên. Chúng chưa lường hết hậu quả việc mình làm. 

- Ừ, ông tha… Nhưng có biết vì sao ông tha không? 

- Dạ! Vì ông Ba tốt bụng ạ! 

- Khỏi nịnh! Ông không tốt bụng đâu... Chỉ vì chúng bay là những đứa có đạo. Chúng bay biết mình sai, biết xin lỗi… Nhưng không phải xin lỗi rồi để đó nghen! Lần sau ông không tha nữa đâu! 

- Dạ! Chúng con cảm ơn ông Ba. Không có lần sau nữa đâu! Đây, chúng con trả lại số ổi chúng con đã hái trộm của ông nè! 

- Thôi! Ông cho các con đó... Cha lũ bay! 

- Dạ! Chúng con cảm ơn ông Ba. 

- Ừ, con nhà có đạo phải thế nhé!... 

Bốn đứa mừng húm. Thịnh như được giải thoát khỏi ngục tù. Nó chui nhanh ra khỏi vườn rồi cùng ba đứa kia chạy theo đàn bò. Chúng vừa chạy vừa cười khúc khích. Đàn bò quen đường nên chúng đã đi ra tới ngoài đồng. Chúng chạy tung tăng mỗi con một nơi rồi tụ lại chỗ gò đất cao nơi có nhiều cỏ xanh. Chúng thi nhau gặm. Bốn đứa cũng chạy tới nơi. Chúng đi đến chỗ gò đất, bên cạnh đàn bò. Chúng tìm một nơi khuất gió tụ lại ngồi nói chuyện. Con Linh và con Liễu mới bày nón ổi ra cho tất cả cùng ăn. Thịnh chọn lấy cái to nhất đưa cho Liễu. 

- Đây, cái ổi to và thơm ngon nhất đó… Anh tặng riêng em đấy! Chút nữa là anh toi mạng vì nó đấy… Á lộn, vì em chứ! 

- Xạo ghê luôn! Ai bảo mà hái chi cho khổ! May mà anh toi mạng thì em cũng chẳng sống nữa… 

- Thiệt hả?... 

- Thiệt gì cha nội! Em toi mạng với bố mẹ của anh thì có! 

- Ừ nhỉ! Mình ngu thật… Thôi ăn đi! 

Ban cũng lấy mấy cái ổi ngon đưa cho Linh. 

- Linh, em ăn mấy cái ổi ngon này nè… Anh chọn cho em đấy! 

- Cho em? Anh cũng ăn đi chứ! 

- Ừ, cho em! Anh thương anh mới cho em đó! 

- Thương em? Sao anh không thương con Liễu? Thương em làm gì cho khổ? 

- Đã bảo là thương em rồi mà! Con Liễu có thằng Thịnh rồi… Bạn bè ai lại đi dành người yêu của nhau! 

- Anh nói thiệt nghen! 

- Thiệt! Thôi em ăn đi... 



3. 


Trời càng về chiều gió càng thổi mạnh và càng lạnh. Thịnh loay hoay đào một cái hố chỗ khuất gió rồi chất củi vào đó. Nó xoay xở mãi mới làm cho lửa cháy rồi chất lên đống lửa mấy củ khoai lang hồi nãy mang theo. Cả bốn đứa tụm lại xuýt xoa ngửi mùi khoai nướng và sưởi ấm. Đàn bò vẫn tung tăng gặm cỏ. Mấy con nghé nhớ vú mẹ cứ chạy theo mẹ đòi bú sữa. Dường như đàn bò cũng lạnh nên chúng tụ tập chung quanh gò đất gần chỗ bốn đứa đang đốt lửa nướng khoai. Trong lúc nướng khoai, Thịnh hỏi Ban. 

- Sao tao thấy chiều nào mấy đứa bay cũng đi nhà thờ hết vậy? 

- Ừ, đi lễ ấy mà! Không đi không được. Quen rồi! Hôm nào bỏ là thấy khó chịu trong người. Chứ mầy không đi lễ chùa à? 

- Không! Mẹ tao là Phật tử. Bà cứ tụng kinh ở nhà không à. Lâu lâu có lễ lớn bà mới lên chùa. Còn tao thì cứ đi chơi cho đã rồi về nhà ngủ thẳng cẳng. Thế là xong một ngày. 

Con Linh xen vào. 

- Anh Thịnh theo đạo gì mà lạ dữ! Không giữ lễ nghĩa phép tắc gì hết. Mình theo Phật phải giữ luật Đức Phật dạy chứ? 

- Ôi chao! Giữ gì mấy cái qui tắc cứng nhắc đó. Để khi lớn khắc giữ được thôi. Bây giờ chơi cho thỏa thích trước kẻo uổng đời tuổi trẻ. Chứ mấy đứa bay cứ giữ đạo nghiêm quá tao thấy phát ớn luôn. Đạo gì mà cứ đi kể tội của mình cho ông cha… Xấu hổ chết! 

Con Liễu nhanh nhảu. 

- Kể tội gì! Xưng tội chứ anh Thịnh. Xưng tội là để cho mình sạch tội. Có sạch tội thì mới đẹp lòng Chúa. Mình xưng tội là xưng với Chúa chứ ông cha chỉ là đại diện cho Chúa thôi. 

- Chứ rủi mình xưng hết các tội cho ông cha rồi ông cha đi nói với người khác thì sao? 

- Không đâu anh! Ông cha buộc phải giữ kín. Nếu ông cha nói ra thì mắc tội trọng. Ông cha không bao giờ nói ra đâu. 

- Nhưng mà mình vẫn cứ phạm đi phạm lại mấy cái tội đó hoài thì xưng làm chi cho mệt. Để đến lúc gần chết xưng luôn cho sạch. 

- Anh nói tào lao không à! Mình có biết lúc nào mình chết đâu mà xưng. Với lại việc xưng tội cũng giống như anh giặt áo ấy chứ. Anh giặt thường xuyên thì áo sạch, còn anh không giặt thì nó càng dơ. 

Ban nói thêm. 

- Do mầy chưa theo đạo nên mầy không biết… Chứ mỗi khi tao đi xưng tội xong thì thấy người vui vẻ hạnh phúc lắm. Mầy không tin thì theo đạo của tao đi. 

- Không đời nào! Vào đạo của mầy rắc rối lắm! Đủ thứ chuyện hết… 

- Chứ mầy không muốn cưới con Liễu nữa hay sao mà nói không? 

- Ừ hả! Cái đó để tính sau. Nhưng tao vẫn thích tự do hơn. Muốn sống sao thì sống. 

Con Liễu bĩu môi. 

- Anh nói nghe dễ quá! Anh muốn sống sao thì sống à? Vậy sao không đi ăn trộm, ăn cướp, bán ma túy gì đó đi. Người ta túm cổ bỏ tù còm xương liền. Nói hão không! Còn chuyện anh muốn cưới được em thì phải theo đạo thôi. Không theo thì đừng có hòng! Em không như mấy đứa kia đâu. Không biết chiều ý em thì “gút-bay” luôn nhé… 

Ban tiếp lời. 

- Mầy nói tào lao quá! Con Liễu nói đúng đó. Sống tự do đâu có nghĩa là muốn làm gì thì làm. Người ta theo đạo thì phải sống theo luật đạo. Giữ luật, luật sẽ giữ mình! 

- Ừ, mầy nói nghe cũng phải đấy! Thôi ăn khoai lang đi... Nhưng mà chúng ta sống theo lời Chúa, lời Phật dạy để làm gì nhỉ? 

Con Linh ra vẻ giảng giải. 

- Sống theo lời Chúa để được lên thiên đàng với Chúa chứ để làm gì! Còn anh sống theo lời Phật dạy thì được lên… lên… 

Thằng Thịnh đỡ lời. 

- Lên Niết Bàn! Không biết mà đòi giảng... Nhưng khó lên Niết Bàn lắm em ơi! Người ta phải qua biết bao nhiêu là kiếp mới lên được. Không biết là kiếp sau tao có được lên Niết Bàn không? Hay là hóa kiếp làm con gì thì khổ. 

Ban nói đùa. 

- Mầy chỉ có hóa kiếp bò thôi! Đi chăn bò nhiều rồi thì chết làm bò cũng sướng đấy! 

- Mầy đúng là thằng chẳng biết gì hết! Đâu phải mình muốn hóa gì thì hóa đâu. Còn phải chờ xét công trạng tu tập nữa chứ. Kiếp trước mình sống tốt thì mới mong hóa kiếp ngon lành. Đó là luân hồi nghiệp báo. 

- Chứ mầy nói vậy thì kiếp trước phải luôn tốt hơn kiếp sau! Còn đạo của tao thì dạy mọi người phải trông chờ vào ngày cuối cùng. Ngày đó Chúa sẽ phán xét. Người lành sẽ lên thiên đàng ở với Chúa, còn kẻ xấu sẽ xuống hỏa ngục xa cách Chúa muôn đời. Cho nên mọi người trong đạo của tao luôn phải lo sống đàng hoàng theo lời Chúa dạy. Như thế đời sau sẽ được sung sướng hạnh phúc. 

- Nghe mầy nói, tao thấy cũng hay hay… Nhưng bảo tao tin chắc cần phải có thời gian. Tao vẫn thích cái giáo lý “luân hồi nghiệp báo” của Phật dạy hơn! 

- Ai bảo mầy theo đạo của tao đâu mà mầy phân trần. Tao chỉ nói niềm tin của ba đứa tao thôi. Chừng nào mầy học giáo lý để cưới con Liễu rồi sẽ dần dần hiểu. 

Bốn đứa tựa vào nhau vừa ăn khoai vừa cười khúc khích. Tiếng chúng quyện vào nhau và theo gió lan ra khắp cánh đồng. Trên trời, nắng bắt đầu tắt dần. Từng đám mây lớn trôi nhanh về phía biển. Và đàn cò trắng bắt đầu rẽ gió bay về nơi ẩn trú. 

Tiếng chuông nhà thờ đổ vang. Thịnh ngẩng đầu lắng nghe. Khuôn mặt nó tươi lên. 

- Chuông nhà thờ kìa! Về thôi anh chị em!... Chúng mầy về đi lễ chứ? 

Nghe tiếng Thịnh nhắc, cả bốn đứa cùng đứng lên tập họp đàn bò và lùa chúng ra về. Đống lửa chúng đốt đã tàn từ lâu. Hơi ấm không còn nữa. Chúng khép mình trong chiếc áo ấm trở về nhà cùng với đàn bò của mình. 

Tiếng chuông nhà thờ vẫn còn đổ liên hồi. Tiếng chuông quen thuộc ấy báo hiệu một ngày sắp tàn. Mọi người đi làm trên đồng lần lượt ra về chuẩn bị cơm nước rồi đi lễ. Cái thói quen ấy của xóm đạo đã thấm vào đời sống của mỗi người kể cả những người ngoại. Hễ nghe tiếng chuông chiều của nhà thờ là họ nghỉ việc và trở về nhà. 

Một ngày đã kết thúc và lòng mỗi đứa rạo rực mong chờ một ngày mới nhiều niềm vui và hạnh phúc. Riêng Thịnh, những câu nói của ba đứa bạn “có đạo” về Chúa vẫn cứ hiển hiện trong đầu. 

Mặt trời đang lặn dần. Phía cuối chân trời, ráng chiều đỏ ối. 



ĐẸP THAY ƠN GỌI ĐAN SĨ!
(Nhân lễ truyền chức Linh Mục, Phó Tế cho các Đan Sĩ) 


Được biết, ngày 7.4.2018, tại Đan Viện Xitô Thánh Mẫu Châu Thủy, thuộc Hội Dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam có lễ truyền chức Linh Mục cho 2 Đan Sĩ, và chức Phó Tế cho 6 Đan Sĩ; và ngày hôm sau 8.4.2018, tại Đan Viện Xitô Thánh Mẫu Phước Lý, cũng có lễ truyền chức Linh Mục cho 6 Đan Sĩ, và chức Phó Tế cho 2 Đan Sĩ. 

Hội Thánh vui mừng, Hội Dòng vui mừng, Đan Viện vui mừng, Dân Chúa vui mừng, gia đình dòng họ của tân chức vui mừng, mọi người vui mừng. Một niềm vui mừng chính đáng, bởi vì tất cả chúng ta đều ý thức rằng: Chức Linh Mục của Chúa Giêsu thông ban cho một con người phàm hèn, là một quà tặng nhưng không, là một quà tặng có thể nói là bất cân xứng giữa người tặng quà và người nhận quà, và còn là một quà tặng quý giá cho Hội Thánh nói riêng và cho cả và nhân loại nữa. 

Quà tặng quý giá là bởi vì, thông qua quà tặng này, thông qua chức Linh Mục thừa tác này, Chúa Giêsu tiếp tục công cuộc cứu thế cho đến Tận thế, cho đến ngày Người trở lại trong vinh quang. Vì qua chức Linh Mục thừa tác, Tin mừng Chúa Giêsu tiếp tục được Loan báo, Lễ tế Thập Giá của Chúa Giêsu tiếp tục sinh hoa trái cứu độ cho đoàn Dân Chúa và cho cả và thiên hạ, Thánh Thể Chúa Giêsu tiếp tục hiện diện trên trần gian làm lương thực dưỡng nuôi đoàn chiên Chúa trên đường lữ hành tiến về quê hương là Nước Trời. Chức Linh Mục thánh thiện ấy, là hồng ân, là quà tặng quý giá đã được trao ban cho một con người, nhưng vì phần rỗi của tất cả mọi người. 

Bởi vậy, hãy vui mừng và cảm tạ hồng ân Chúa, không chỉ là tâm tình của tân chức Linh Mục, của gia đình, dòng họ Linh Mục mà còn phải là của mỗi chúng ta, mỗi tín hữu, và cũng phải là nỗi vui mừng và tâm tình tạ ơn của những con người lương thiện, khao khát điều công chính, khao khát biết Chúa, khao khát ơn tái sinh trong Chúa Kitô. 

Vâng Linh Mục “trở nên mọi sự cho mọi người – Omnia omnibus”. Từ “mọi người”, không có giới hạn là đoàn chiên, là Giáo Dân, mà còn là lương dân, còn là những kẻ chưa tin, những người không muốn tin, những người chống đối, quấy nhiễu. 

Tôi bỗng nhớ Đức Cố Giám Mục Nicolas Huỳnh Văn Nghi nổi tiếng xây dựng nhiều Nhà Thờ tại Giáo Phận Phan Thiết này trong thời gian làm ngài làm Giám Mục Chánh Tòa Phan Thiết, bởi vì, có lần ngài nói: “Lớn nhỏ gì cũng cứ xây dựng đi. Rồi mai đây, sẽ có biết bao người sẽ trở về với Chúa. Những người chưa tin và cả những người chống đối, không ai cưỡng nổi lời mời gọi của Chúa đâu! Việc quan trọng và cần kíp hơn là hãy cầu xin cho Hội Thánh có nhiều Linh Mục thánh thiện”. 

Thêm một việc bỗng nhớ, năm đó, cha Phaolô Nguyễn Trọng Báu được thuyên chuyển về Giáo Xứ Giuse mới thành lập, kế thừa Linh Mục Tiên khởi là GB. Nguyễn Hồng Uy. Có người ở nơi khác đến dự lễ nhận nhiệm sở, hỏi một cô ca viên rằng: “Giáo Xứ này được bao nhiêu Giáo Dân?” Cô ca viên hồn nhiên trả lời: “Khoảng mười mấy ngàn đó anh ạ” – “Hết hồn. Sao mà đông quá vậy?” – “Đông chứ, hầu hết chưa được rửa tội” – “Chưa được rửa tội sao gọi là Giáo Dân?” – “Có cha về coi xứ thì từ từ rồi rửa cũng hết thôi anh ạ!” Đúng là một khát vọng truyền giáo nơi một Giáo Dân đã lên đến đỉnh điểm! 

Như thế đó, khao khát cho “Nước Cha trị đến” không chỉ tâm tình của một Đức Cha, Chủ Chiên của một Giáo Phận, mà còn là tâm tình của một Giáo Dân, một con chiên trong đoàn chiên, cũng đặt niềm hy vọng vào các Linh Mục, hy vọng nơi Linh Mục là người “trở nên moi sự cho mọi người”. 

Lại thêm một câu chuyện bỗng nhớ, trong bữa tiệc Tạ Ơn của một tân linh mục nọ, có sự tham dự của vài anh CA, vài người chính quyền, tân Linh Mục ấy cụng ly với họ và nói: Các anh cũng phải vui mừng và tạ ơn Chúa với tôi, vì tôi được làm Linh Mục cũng vì phần rỗi của các anh và con cháu các anh nữa. Một anh CA trong số ấy không hiểu ông cha mới nói như thế nghĩa là gì, nhưng cứ nhớ mãi câu nói này: “cũng vì phần rỗi của các anh và con cháu các anh nữa”. Mười hai năm sau, anh gặp lại cha và nói: “Giờ tôi mới hiểu câu nói của Linh Mục 12 năm trước. Con tôi nó đòi theo đạo và cưới vợ đạo, không cản nổi. Linh Mục giúp nó cho đàng hoàng nhé. Tôi nhờ đó”. 

Vâng, Linh Mục là như thế đó, “trở nên mọi sự cho mọi người”, tất cả vì đoàn chiên trong ràn và đoàn chiên chưa thuộc về ràn nữa. 

Chắc có người sẽ phàn nàn với tôi rằng, tân Linh Mục hôm nay là Linh Mục Dòng, lại là một Đan Sĩ Linh Mục, không phải Linh Mục Triều, thì làm gì có chuyện coi xứ, làm gì có chuyện có đoàn chiên, làm gì có chuyện nên mọi sự cho mọi người? 

Vâng, nếu thắc mắc như vậy thì chứng tỏ là chúng ta hiểu thế nào là Đan Sĩ rồi. Từ Đan Sĩ bởi gốc tiếng là tinh là Monachus, và Hy Lạp là Monos, với các ý nghĩa nguyên sơ là người tự lập, người sống độc thân. Các Dòng Khổ Tu dùng từ Đan Sĩ cũng với hai nghĩa ấy, và còn thêm ý nghĩa nữa: Đan Sĩ là người kết hợp hoàn toàn với Thiên Chúa vì phần rỗi các linh hồn. 

Đan Sĩ là những Kitô hữu thực hành tôn giáo một cách khổ hạnh, sống một mình hoặc với những người khác trong cùng một môi trường gọi là Đan Viện. Đời sống chủ yếu của các Đan Sĩ là cầu nguyện, chiêm niệm, tự hành xác và lao động tự cung tự cấp. 

Vậy, nếu các Linh Mục Triều là người trực tiếp coi sóc Giáo Dân, thì các Đan Sĩ Linh Mục, các Linh Mục Dòng, các Linh Mục chiêm niệm, là những người luôn cầu nguyện cho công việc của Hội Thánh được đươm bông kết trái. Tất cả cũng vì đoàn chiên vậy, cũng là nên mọi sự cho mọi người vậy. 

Vì thế, ước gì mỗi chúng ta hãy xin các Đan Sĩ cầu nguyện, hãy xin các Đan Sĩ Linh Mục cầu nguyện, và nếu chưa trực tiếp mà xin họ cầu nguyện thì cũng hãy tin rằng, các Đan Sĩ, các Đan Sĩ Linh Mục luôn là những con người sống, làm việc và cầu nguyện không chỉ cho đoàn Dân Chúa, mà còn cho thế giới, cả và thiên hạ này, trong đó, có chúng ta hưởng nhờ lời cầu nguyện của họ. Một ngày 7 giờ kinh nguyện theo lịch của Dòng, nhưng cả 24 giờ trong ngày đối với một Đan Sĩ, là 24 giờ cầu nguyện. Bởi, theo Tu Luật, theo hiến pháp của Dòng, 24 giờ trong một ngày của họ, là 24 giờ kết hiệp mật thiết với Chúa. 

Đức cố Viện Phụ Trần Ngân, Đan Viện Phụ Thánh Mẫu Phước Lý, có lần đã xác nhận rằng: "Những ngày lễ nghỉ của xã hội, là những ngày mà các Đan Sĩ cầu nguyện nhiều giờ hơn, có thể suốt ngày và suốt đêm, để cầu xin cho mọi người biết dùng thời gian nghỉ lễ cho nên, và đừng lạm dụng thời gian nghỉ ngơi mà phạm tội mất lòng Chúa." 

Ôi, đẹp thay ơn gọi Đan Sĩ! Đẹp thay vẻ đẹp của những Đan Viện! Đẹp thay vẻ đẹp của những con người sống mật thiết với Chúa, những con người muốn làm đẹp lòng Chúa, những con người tìm chìm mình trong Sự Sống của Thiên Chúa, những con người luôn làm sống lại “phút tâm giao đêm Vườn Dầu” của Đức Kitô trong chính cuộc đời mình, để nguyện ước cho chính mình và cho mọi thành phần Dân Chúa “làm theo ý Cha “ giữa một thế giới phù vân đầy những nhiễu động hấp dẫn. 

Trong một ca khúc phản chiến của Trịnh Công Sơn, có câu: “Một người già trong công viên, một người điên trong thành phố…” Vâng, già vì tới tuổi phải già, và già thì cô đơn, già thì chiếc bóng… điên vì thất chí mới điên, điên vì tình đời bạc bẽo, điên vì vận nước điêu linh, điên vì vỡ mộng… 

Chuyện già, chuyện điên ấy như chuyện đời thường, như quy luật tự nhiên. Có chuyện này không tự nhiên tí nào, là hiện có cả 1.000 Đan Sĩ của Hội Dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam, mà tôi cũng muốn gọi là 1.000 người điên trong Đan Viện, và còn có biết bao Tu Sĩ chiêm niệm trong các Hội Dòng khác, mà tôi muốn gọi họ là những người điên, nhưng không phải điên cái điên bình thường. Họ điên đúng cái điên của Thầy Giêsu, họ điên đúng cái điên của Thiên Chúa... 

- Họ điên vì chẳng màng tới thế giới đầy lao xao, hấp dẫn, mà lại tìm vào thinh lặng với cõi huyền diệu của Thiên Chúa, yêu mến nồng nàn đến độ xin kết hiệp toàn thân xác tâm hồn với Thiên Chúa mà thôi. (Nguyện Đường của Đan Viện Xitô Phước Lý buổi sơ khai). 

- Họ điên vì ăn chay, hãm mình, đền tội cho toàn nhân loại, điên vì ngày đêm chấp nhận sự tàn tạ héo mòn của thân xác mình để mong được đổi lấy ơn thứ tha, ơn canh tân, ơn cải hóa con người, cho người trở về đàng lành, trở về lối thiện hảo, công chính. 

- Họ điên vì làm lụng vất vả để có cái ăn, ăn vừa đủ để có cái sống, tiền bạc tùy nhà Dòng cho theo nhu cầu cũng vừa đủ để tiêu dùng, nhưng họ sống trọn tình cho Thiên Chúa, trọn nghĩa cho Hội Thánh của Chúa và trọn đời cho tất cả mọi người được ơn cứu rỗi. 

- Họ điên không chỉ vì đã dâng tất cho Thiên Chúa, lại còn hân hoan vì không còn gì để nắm giữ, hân hoan vì trắng tay, hân hoan vì được tan chảy trong tình yêu của Thiên Chúa. 

- Họ điên chính cái điên thánh thiện của Chúa Kitô, cái điên của Đấng Cứu Thế, sống giữa loài người nhưng luôn tuân phục và thi hành Thánh ý Cha. 

Ước gì mỗi chúng ta: 

- Hãy xóa bỏ ngay sự phân biệt, so sánh cao thấp, sang hèn, lớn nhỏ, giữa Linh Mục Dòng và Triều, giữa các Đan Sĩ, các Tu Sĩ chiêm niệm và các Tu Sĩ hoạt động. 

- Hãy xóa đi cái tự phụ về ơn gọi Triều, và cũng xóa đi cái tự phụ về ơn gọi Dòng này, Dòng nọ có tên, có tuổi, có thành tích truyền giáo, có hiệu quả hoạt động, xóa đi cái nhìn thiếu chính xác hoặc xem thường ơn gọi Dòng, nhất là ơn gọi các Dòng Khổ Tu chiêm niệm. 

- Và càng phải rửa sạch cái luận điệu bài xích những con người mà mình cứ xếp loại họ là bé nhỏ, thấp kém, ít học, thiếu học vị, thiếu bằng cấp. 

- Các cha mẹ hãy xóa đi cái ước mơ cho con cái mình, cho người trẻ nhà mình về một ơn gọi khanh tướng sang trọng vẻ bên ngoài. Và cũng hãy xóa đi cái định hướng sai lệch cho người trẻ theo ước mơ sai lệch ấy. Nhưng cha mẹ cũng hãy luôn cầu nguyện liên lỉ như một Đan Sĩ để tin tưởng và trao phó cho Thiên Chúa việc định liệu ơn gọi cho con cái mình, cho người trẻ nhà mình. 

- Hãy quý trọng tất cả các ơn gọi, vì tất cả đều bắt nguồn từ lòng xót thương và đức khôn ngoan vô cùng thượng trí của Thiên Chúa, Đấng kêu gọi mỗi chúng ta vào kế hoạch cứu độ huyền nhiệm của Người, theo cách của Người. 

Cách riêng, khi nhớ đến các Đan Viện, các Đan Sĩ, ước gì, mỗi chúng ta: 

- Hãy tạ ơn Chúa và biết ơn các Đan Sĩ, những người ngày đêm kết hiệp với Chúa, ngày đêm ăn chay, hãm mình, hy sinh tất cả, dâng hiến tất cả cho Thiên Chúa, ngày đêm kêu khấn nài van Thiên Chúa ban ơn bình an cho Hội Thánh, cho các tín hữu trên toàn thế giới, ngày đêm khấn xin cho Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên Trời. 

- Hãy tạ ơn Chúa và biết ơn các Đan Sĩ vì chính sự kết hiệp với Thiên Chúa, chính sự cầu nguyện của họ, là nội lực uyên thâm của Hội Thánh, nội lực huyền bí của mọi hoạt động truyền giảng Tin Mừng, nội lực thần linh như vũ khí bách chiến bách thắng mọi âm mưu của Xatan nhằm phá hoại Hội Thánh, là nội lực thông truyền ân sủng cách nhưng không của Thiên Chúa cho tất cả mọi tín hữu trên toàn cầu. 

- Hãy tạ ơn Chúa và biết ơn các Đan Sĩ, những người làm gương cho chúng ta một đời sống chiêm niệm cần thiết có trong đời thường của chúng ta… 

… những tín hữu chiêm niệm để kín múc lấy sự sống thần linh của Thiên Chúa, 

… những tín hữu chiêm niệm để thấu cảm nỗi lòng của Thiên Chúa, 

… những tín hữu chiêm niệm để sống chính sự sống bình an hạnh phúc của Thiên Chúa, 

… những tín hữu chiêm niệm để nhận ra chính xác, thực hành đúng đắn thánh ý Thiên Chúa, 

… những tín hữu chiêm niệm và để cảm nghiệm sâu sắc sự sống phục sinh, sự sống trong Nước Thiên Chúa ngay khi còn sống ở đời này. 

Lạy Chúa, xin cho có nhiều bạn trẻ không do dự ngại ngần, không so đo tính toán, nhưng hân hoan đáp lại tiếng Chúa gọi, sẵn sàng bước vào đời sống tu trì ở các Hội Dòng, các dòng khổ tu, các Đan Viện để sống đời chiêm niệm. 

Xin cho chúng con luôn biết tạ ơn Chúa vì những việc lạ lùng mà Chúa đã, đang và còn sẽ thực hiện nơi những con người Đan Sĩ khiêm nhường, hiền lành bé mọn kia. 

Nguyện xin cho đời sống chiêm niệm của các Đan Sĩ luôn mang lại nội lực ân sủng Chúa cho toàn thể Hội Thánh, trong đó có chúng con, đa số những người đang sống bậc sống gia đình với bao thử thách, bao cám dỗ giữa cuộc đời này. Amen. 

PM. CAO HUY HOÀNG, 7.4.2018
(Ephata 793)