BẢN XÉT MÌNH MÙA CHAY

(CN 2 Mùa Chay – BIẾN HÌNH: Mc 9,1-9)

Chúa muốn con đi thật xa,
Con thì lại thích la cà rong chơi.
Chúa đưa lên đỉnh cao vời,
Đầm lầy con muốn xây đời ấm êm.

Chúa mời theo Chúa ngày đêm,
Riêng con mặc cả, bớt thêm, hẹn chờ.
Chúa chọn bé nhỏ đơn sơ,
Con ưa hào nhoáng tôn thờ siêu sao.

Chúa khó nghèo, Chúa lao đao,
Sang giàu con chuộng, chức cao con tìm.
Yêu người Chúa trọn một niềm,
Đời con ích kỷ con tim hững hờ.

Nước sâu thuyền Chúa đợi chờ,
Con thì đành đoạn trên bờ quay lưng.
Chúa mang thập giá không dừng,
Khổ đau vừa chạm ngập ngừng con xa.

Chúa vào sa mạc với Cha,
Com tìm đô hội hát ca với đời.
Chúa lo công việc Nước Trời,
Suốt ngày con bận việc đời riêng con…
Ý Cha Chúa nguyện vuông tròn,
Kiêu căng con giữ ý con chẳng dời…

Con khác Chúa quá Chúa ơi,
Mùa Chay xin Chúa cải đời cho con !

Mùa Chay 2018

Sơn Ca Linh

VATICAN. Đức Thánh Cha (ĐTC) mời gọi các bạn trẻ phân định để vượt thắng các nỗi lo sợ, tín thác nơi tình yêu Thiên Chúa và tình mẫu tử của Mẹ Maria.

Đưa ra lời kêu gọi trên đây trong sứ điệp công bố hôm 22-2-2018, nhân Ngày Quốc Tế giới trẻ sẽ được cử hành ở cấp giáo phận vào chúa nhật lễ lá, 25-3 tới đây, với chủ đề là lời Sứ Thần Chúa ”Hỡi Maria đừng sợ, vì Bà đã được ơn nơi Thiên Chúa” (Lc 1,39).

Hãy nhìn lên tấm gương Mẹ Maria



ĐTC nhận xét rằng ”Ngày nay bao nhiêu người trẻ có những nỗ lo sợ khác nhau, nhiều người có cảm tưởng mình phải sống khác với những gì trong thực tế, vì thế họ thấy cần phải thích ứng với kiểu mẫu giả tạo, sửa sang hình ảnh của mình, nấp sau những mặt nạ và căn tính giả tạo..”

ĐTC viết: “Trong những lúc nghi nan và lo sợ trong tâm hồn, cần phải có sự phân định, nhận ra và gọi đích danh nỗi sợ hãi của mình”. Trong sự phân định như thế cần tín thác nơi lòng từ nhân và tình yêu vô biên của Thiên Chúa, tín thác nơi Chúa.

Trong tiến trình này, ĐTC nhắn nhủ các bạn trẻ hãy nhìn lên tấm gương của Mẹ Maria: Thiên Chúa đã gọi đích danh Mẹ, Chúa cũng quan tâm và gọi đích danh mỗi người chúng ta, chứng tỏ phẩm giá cao cả của chúng ta trước Thiên Chúa.

Mẹ Maria không sợ hãi vì Mẹ đã được ơn phúc nơi Thiên Chúa. Cả chúng ta cũng được ơn thánh của Thiên Chúa nâng đỡ. ”Sự hiện diện liên tục của ơn Thánh Chúa khích lệ chúng ta tín thác, đón nhận ơn gọi Chúa dành cho chúng ta, ơn gọi đòi chúng ta phải dấn thân trung thành và canh tân lòng trung thành ấy mọi ngày..

Và ĐTC kết luận rằng: ”Tôi mời gọi các bạn hãy chiêm ngắm tình thương của Mẹ Maria: một tình yêu ân cần chăm sóc, năng động, cụ thể. Một tình yêu đầy táo bạo và hoàn toàn hướng về sự hiến thân. Một Giáo Hội được thấm nhiễm những đức tin ấy của Mẹ Maria sẽ luôn luôn là một Giáo Hội đi ra ngoài, đi xa hơn những giới hạn và biên cương của mình để làm cho ơn thánh đã nhận lãnh được lan tỏa, trào ra bên ngoài”.

Quan tâm của Giáo hội dành cho người trẻ


Trong thông cáo công bố hôm 22-2-2018, Bộ giáo dân, gia đình và sự sống cho biết trên đây là nội dung sứ điệp thứ 2 ĐTC Phanxicô gửi giới trẻ trong hành trình chuẩn bị Ngày Quốc Tế giới trẻ cấp hoàn vũ, sẽ tiến hành tại Panama từ 22 đến 27-1-2019. Ngài muốn các bạn trẻ được Đức Mẹ Maria đồng hành trong hành trình thiêng liêng ấy. Năm ngoái, 2017, Sứ điệp qui trong tâm vào lời Mẹ Maria trong kinh Magnificat: ”Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi những điều trọng đại” (Lc 1,49). Năm tới, sứ điệp sẽ có chủ đề là câu trả lời của Mẹ Maria với Sứ Thần Chúa: ”Này tôi là tôi tớ Chúa, xin xảy ra cho tôi theo lời Sứ Thần” (Lc 1,38).

Chủ đề 3 năm xoay quanh Mẹ Maria trong tiến trình Ngày Quốc Tế giới trẻ nói lên ước muốn của ĐTC Phanxicô cống hiến cho người trẻ toàn thế giới một cái nhìn hướng thần về đời sống của họ. Ngài viết ”Thực vậy, điều tôi quan tâm là làm sao các bạn trẻ tiến bước, không những chỉ nhớ lại quá khứ, nhưng còn có can đảm trong hiện tại và hy vọng đối với tương lai” (Sứ điệp Ngày Quốc Tế giới trẻ năm 2017). Hành trình này liên kết với hành trình của Thượng HĐGM thế giới kỳ thứ 15 sẽ tiến hành tại Roma vào tháng 10 năm nay về đề tài ”Người trẻ, đức tin và sự phân định ơn gọi”. Chủ đề này mời gọi suy tư về thực tại các thế hệ trẻ đang sống, về đời sống đức tin của họ và cách thức trong đó họ đi tới những quyết định căn bản, hình thành tương lai của họ và của nhân loại. (Rei 22-2-2018)

G. Trần Đức Anh OP
Nguồn: http://vi.radiovaticana.va/


Sứ Điệp của Đức Thánh Cha Phanxicô gửi cho Ngày Giới Trẻ Thế Giới


“Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa.” Lc 1, 30.

Các bạn trẻ thân mến,

Ngày Giới Trẻ Thế giới năm 2018 là một bước chuẩn bị cho Ngày Giới Trẻ Thế giới cấp quốc tế diễn ra tại Panama vào tháng 1 năm 2019. Chặng đường mới này của cuộc hành hương của chúng ta rơi vào cùng năm mà Thượng Hội Đồng Giám Mục Thường Niên sẽ nhóm họp với chủ đề: Người trẻ, đức tin và phân định ơn gọi. Đây quả là sự trùng hợp thú vị. Sự chú tâm, cầu nguyện và phản tỉnh của Giáo Hội sẽ hướng về chúng con là những người trẻ, với khao khát để đón nhận, và trên hết, để ôm lấy món quà quí giá mà chúng con đang dành cho Thiên Chúa, cho Giáo Hội và cho thế giới.

Như chúng con đã biết, chúng ta đã chọn mẫu gương và sự cầu cử của Mẹ Maria đồng hành với ta trên hành trình này, Mẹ cũng là người nữ trẻ thành Nazarét được Chúa chọn làm Mẹ của Con Thiên Chúa. Mẹ đi cùng với chúng ta hướng về Thượng Hội Đồng Giám Mục và hướng tới Ngày Giới Trẻ Thế Giới tại Panama. Nếu năm ngoái những lời chúc tụng của Mẹ hướng dẫn chúng ta, “Ðấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả.” (Lc1,49), thì năm nay cùng với Mẹ, chúng ta tìm kiếm, lắng nghe Lời Chúa khơi dậy lòng can đảm và ban ơn cần thiết để chúng ta đáp lại lời mời gọi của Ngài: “Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa.” (Lc 1:30). Đây là những lời của Tổng Lãnh Thiên Thần Gabrien nói với Maria, một thiếu nữ bình dị tại làng nhỏ bé ở Galilê.

1. Đừng sợ!

Chúng ta có thể hiểu được sự xuất hiện đột ngột của thiên thần với lời chào màu nhiệm: “Mừng vui lên, hỡi Ðấng đầy ân sủng, Ðức Chúa ở cùng bà.” (Lc 1:28) đã làm cho Maria bối rối. Maria rất ngạc nhiên trước sự tiết lộ đầu tiên về danh tính và ơn gọi khi mà Maria vẫn chưa được ai biết đến. Mary giống những người trong Kinh Thánh, run sợ trước lời gọi nhiệm mầu của Thiên Chúa. Chỉ trong chốc lát Thiên Chúa đặt trước Maria vô số kế hoạch của Ngài, và khiến Maria cảm thấy tất cả sự nhỏ bé của mình như một thụ tạo khiêm tốn. Thiên thần thấy được nơi thẳm sâu trong lòng của Mẹ, nên ngài nói: “Đừng sợ!” Thiên Chúa cũng đọc được tận trong cõi lòng của chúng ta. Thiên Chúa biết rõ những thách đố mà chúng ta phải đương đầu trong cuộc sống, đặc biệt khi chúng ta đối diện với những lựa chọn cơ bản dựa trên việc chúng ta là ai, và chúng ta sẽ làm gì trong thế giới này. Đây quả là điều “rùng mình” mà chúng ta cảm thấy khi phải đối diện với những quyết định về tương lai, bậc sống và ơn gọi của chúng ta. Trong những lúc đó, chúng ta gặp bối rối và bị rất nhiều nỗi sợ hãi vây quanh.

Là những người trẻ, nỗi lo sợ của chúng con là gì? Điều gì làm chúng con lo lắng nhất? Nỗi sợ hãi “căn bản” mà nhiều người trong chúng con gặp phải là thấy mình không được yêu thương, yêu hay được đón nhận dù chúng con là ai. Ngày nay, có rất nhiều người trẻ cảm thấy cần phải khác với những gì họ thực sự là, trong nỗ lực thích ứng với chuẩn mực giả tạo và không thể đạt được. Họ liên tục “đánh bóng” hình ảnh của họ, ẩn sau chiếc mặt nạ và căn tính dối trá ấy, chính họ gần như trở thành cái tôi sống ảo. Nhiều người bị ám ảnh với việc nhận được càng nhiều “like” càng tốt. Nhiều nỗi sợ hãi và sự không chắc chắn xuất hiện từ ý thức không phù hợp này. Những người khác lại sợ họ không thể tìm được an toàn về tình cảm và họ ở lại trong nỗi cô đơn. Nhiều người đối diện với bấp bênh của công việc, sợ không thể tìm thấy một vị trí chuyên môn thỏa đáng, hoặc để hoàn thành ước mơ của họ. Ngày nay, một số lượng lớn thanh thiếu niên đầy sợ hãi, cả người tin lẫn người không tin. Thật vậy, những người đón nhận món quà đức tin và tìm kiếm ơn gọi một cách nghiêm túc, họ cũng không miễn trừ khỏi sợ hãi. Một số người nghĩ rằng có lẽ Thiên Chúa đang yêu cầu hoặc tra hỏi hỏi họ quá nhiều. Có thể đi theo con đường mà Thiên Chúa vạch ra cho tôi, tôi sẽ không thực sự hạnh phúc, hoặc tôi chẳng thể làm những gì Thiên Chúa đề nghị tôi. Những người khác nghĩ rằng nếu tôi đi theo con đường Thiên Chúa chỉ cho tôi, ai có thể đảm bảo rằng tôi có thể đi đến cuối con đường? Tôi sẽ nản chí thoái lui? Tôi đánh mất lòng nhiệt huyết của mình? Liệu tôi có thể kiên trì suốt cả cuộc đời tôi chăng?

Trong khoảnh khắc những nỗi hoài nghi và sợ hãi tràn ngập trái tim chúng ta, phân định là cần thiết. Phân định cho phép chúng ta lấy lại trật tự trước những bối rối trong suy nghĩ và cảm xúc của chúng ta, để hành động trong đường lối công minh thận trọng. Trong tiến trình này, bước đầu tiên vượt qua nỗi sợ hãi là định vị chúng một cách rõ ràng, để không phí thời gian sức lực trong việc bám lấy những bóng ma trống rỗng và vô hồn. Như thế, cha mời tất cả chúng con nhìn vào lòng mình để “đặt tên” cho những nỗi sợ của chúng con. Hãy hỏi chúng con rằng điều gì làm tôi phiền muộn, lúc này trong những điều cụ thể của cuộc đời hôm nay, điều tôi sợ nhất là gì? Điều gì cản trở và ngăn cản tôi tiến lên phía trước? Tại sao tôi thiếu can đảm để đưa ra những lựa chọn quan trọng mà tôi cần làm? Đừng sợ phải đối diện với nỗi sợ của chúng con một cách trung thực, để nhận ra chúng là gì và đối diện với chúng. Kinh Thánh cũng có những kinh nghiệm của con người về sự sợ hãi với nhiều nguyên nhân. Áp-ra-ham sợ hãi (xem Sáng Thế12, 10), Gia-Cóp sợ hãi (xem Sáng Thế 31,31, và 32, 7), và Mô-sê cũng vậy (xem Xuất Hành 2:14, 17: 4), Phêrô (xem Mt 26, 69) và các Tông Đồ cũng thế (xem Mc4, 38-40; Mt26,56). Chính Chúa Giêsu, dù không thể so sánh, cũng kinh sợ và đau khổ khủng khiếp (xem Mt 26,37; Lc22,44).

“Sao nhát thế ? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?” “(Mc 4,40). Khi khuyên nhủ các môn đệ của mình, Chúa Giêsu giúp chúng ta hiểu được làm sao mà sợ hãi lại thường trở ngại cho đức tin, chứ không phải là hoài nghi. Như vậy hiểu rằng việc phân định chỉ ra nỗi sợ hãi của chúng ta và sau đó có thể giúp chúng ta vượt qua chúng, mở cho chúng ta cuộc sống và giúp chúng ta bình tĩnh đối mặt với những thách thức đang đến trên đường đời. Đối với chúng ta, đặc biệt là những Kitô hữu, sợ hãi không bao giờ là lời cuối cùng, nhưng đúng hơn, đó là dịp để thực thi niềm tin vào Thiên Chúa … và vào cuộc sống! Điều này có nghĩa là tin tưởng vào điều tốt lành cơ bản của sự hiện hữu mà Thiên Chúa ban cho chúng ta và tin tưởng Ngài sẽ dẫn dắt chúng ta đến một hồi kết tốt đẹp, thậm chí ngang qua những cảnh huống thăng trầm khiến chúng ta hoang mang. Tuy nhiên, nếu chúng ta che giấu nỗi sợ hãi, chúng ta sẽ hướng nội, khép kín để bảo vệ bản thân khỏi mọi thứ và mọi người, và chúng ta sẽ bị tê liệt. Chúng ta phải hành động! Không bao giờ đóng kín mình! Trong Kinh Thánh, cụm từ “Đừng sợ” lặp lại 365 lần với những thay đổi khác nhau, như thể nói với chúng ta rằng Thiên Chúa muốn chúng ta thoát khỏi sợ hãi mọi ngày trong năm.

Phân định rất cần thiết khi ai đó đang tìm kiếm ơn gọi cho mình trong cuộc đời. Thường thì ơn gọi của chúng ta lúc đầu không rõ rằng hiển nhiên, nhưng dần dần chúng ta hiểu được nó. Phân định trong trường hợp này, không nên hiểu như là một nỗ lực cá nhân trong nội tâm, nhằm mục đích hiểu rõ hơn về nội tâm của chúng ta, để củng cố chúng ta và có được sự cân bằng. Trong những trường hợp như thế, người đó có thể mạnh hơn, nhưng vẫn còn hoay hoay trong chân trời giới hạn về khả năng và quan điểm của mình. Tuy nhiên, ơn gọi là một lời gọi đến từ bên trên, và phân định trong bối cảnh này chủ yếu chính chúng ta mở lòng trước Đấng gọi mời. Vì thế, cần phải thinh lặng cầu nguyện để nghe tiếng Chúa vang lên trong tâm hồn chúng ta. Thiên Chúa gõ cửa cõi lòng chúng ta như Ngài đã làm với Maria; Chúa mong muốn thiết lập tình bạn với chúng ta qua cầu nguyện, trò chuyện với chúng ta qua Sách Thánh, để ban cho chúng ta lòng thương xót trong Bí Tích Hòa Giải, và cùng ở với chúng ta trong Bí Tích Thánh Thể.

Điều quan trọng là phải đối thoại và gặp gỡ tha nhân, anh chị em trong đức tin của chúng ta là những người có nhiều kinh nghiệm, để họ giúp chúng ta thấy tốt hơn và lựa chọn khôn ngoan từ những khả thể khác nhau. Khi cậu bé Samuen nghe tiếng của Đức Chúa, cậu không nhận ra điều đó ngay. Ba lần cậu chạy đến gặp thầy tư tế lớn tuổi Êli, thầy cuối cùng đưa ra lời đề nghị chính xác cho cậu trước tiếng gọi của Chúa: “Hễ có ai gọi con thì con thưa: “Lạy Ðức Chúa, xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe.” (1Sam 3,9). Trong những nghi ngờ của chúng con, hãy biết rằng chúng con có thể cậy dựa vào Giáo Hội. Cha biết có rất nhiều linh mục, những người nam nữ tu sĩ và giáo dân, nhiều người trong số họ còn trẻ, những người có thể trợ giúp chúng con như anh chị em trong đức tin. Được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, họ sẽ giúp chúng con hiểu rõ những nghi ngờ của chúng con và hiểu được kế hoạch ơn gọi của chính chúng con. Họ không chỉ là người linh hướng, mà còn là người giúp chúng ta mở lòng trước phong nhiêu vô biên của đời sống mà Thiên Chúa ban cho chúng ta. Điều quan trọng là hãy tạo không gian trong các thành phố và cộng đoàn để phát triển, để mơ ước và để nhìn vào những chân trời mới! Không bao giờ mất đi lòng nhiệt thành tận hưởng sự đồng hành và tình bạn của tha nhân, cũng như phấn khởi cùng nhau ước mơ, cùng nhau dấn bước. Kitô hữu đích thực không sợ mở lòng mình với người khác và chia sẻ những không gian quan trọng của chính mình, làm cho không gian ấy đượm tình huynh đệ. Các bạn trẻ thân mến, đừng cho phép người trẻ bị dập tắt trong bóng tối của một căn phòng khép kín mà chỉ có cửa sổ nhìn ra thế giới bên ngoài là máy tính và điện thoại thông minh. Hãy mở rộng cánh cửa đời sống của chúng con! Hãy để thời gian và không gian của chúng con tràn ngập những mối quan hệ có ý nghĩa, những con người thực, với những người mà chúng con chia sẻ kinh nghiệm thực và cụ thể về cuộc sống hàng ngày của chúng con.

2. Maria!


“Ta đã gọi ngươi bằng chính tên ngươi: ” (Is 43,1). Lý do đầu tiên không phải lo sợ là Thiên Chúa đã gọi chúng ta bằng tên. Thiên thần, sứ giả của Thiên Chúa, gọi tên Maria bằng tên. Thiên Chúa có quyền đặt tên. Trong công trình sáng tạo, Đức Chúa gọi mọi thụ tạo theo tên. Có một căn tính đằng sau cái tên, đó là cái duy nhất trong mọi thứ duy nhất, trong mỗi người duy nhất; điều ấy là mối thân tình căn bản mà chỉ Thiên Chúa thực sự biết. Quyền thánh thiêng này, Thiên Chúa chia sẻ với con người khi Ngài mời gọi con người đặt tên cho thú vật, chim trời và cho cả con cái loài người (Sáng Thế2, 19-21, và 4, 1). Nhiều nền văn hoá chia sẻ tầm nhìn kinh thánh sâu sắc này; họ nhận ra trong mỗi cái tên đều mặc khải cuộc sống sâu sắc nhiệm mầu và ý nghĩa của tồn tại.

Khi kêu gọi ai đó bằng tên, Thiên Chúa cũng tiết lộ cho người ấy biết ơn gọi của Ngài, kế hoạch thánh thiện và thành toàn của Ngài. Qua đó, người ấy trở thành món quà cho tha nhân và là duy nhất. Khi Thiên Chúa muốn mở rộng chân trời cuộc sống, Ngài đặt một tên mới cho người mà Thiên Chúa gọi, như Ngài đã làm với Simon mà Ngài quen gọi là Phêrô. Từ đó, có một tục lệ là khi bước vào Dòng tu, người tu sĩ có tên mới để cho thấy một căn tính và sứ mạng mới. Vì lời gọi của Thiên Chúa là duy nhất và rất cá nhân, nên chúng ta cần can đảm để giải thoát mình khỏi áp lực, khỏi những khuôn mẫu rập khuôn, để cuộc sống của chúng ta thật sự có thể trở thành một món quà đích thực cho Thiên Chúa, cho Giáo Hội và cho mọi người.

Các bạn trẻ thân mến, được gọi theo tên là dấu chỉ của phẩm giá cao cả trong mắt Thiên Chúa, và là dấu hiệu tình yêu dành cho chúng ta. Thiên Chúa kêu gọi mỗi người chúng con theo tên. Tất cả chúng con là “bạn” của Thiên Chúa, quý giá trong ánh mắt Ngài, đáng kính trọng và yêu thương (xem Is43,4). Hân hoan vì cuộc đối thoại mà Thiên Chúa dành cho chúng con, tiếng gọi mà Ngài ban cho và mời gọi chúng con bằng danh xưng.

3. Bà đẹp lòng Thiên Chúa


Lý do chính tại sao Maria không cần phải sợ là vì Maria luôn làm đẹp lòng Chúa. Từ “ân sủng” nói đến thứ tình yêu tự do trao ban, không nợ nần. Chúng ta được khích lệ biết bao để biết rằng chúng ta không phải tìm kiếm sự gần gũi và sự trợ giúp của Thiên Chúa bằng cách trưng ra “Tấm bằng thuộc loại xuất sắc” với đầy tham vọng và công danh! Thiên thần nói với Maria rằng Maria đã tìm được ơn nghĩa với Thiên Chúa, chứ không phải là Maria sẽ đạt được nó trong tương lai. Và cùng cách thức của lời thiên thần nói, giúp chúng ta hiểu rằng ân sủng của Thiên Chúa là liên tục, chứ không phải là một cái gì đó hời hợt thoáng qua. Vì lý do này chúng ta không bao giờ thất bại. Ngay cả trong tương lai, ân sủng của Thiên Chúa sẽ luôn ở đó để trao ban cho chúng ta, đặc biệt trong những giây phút thử thách tăm tối.

Sự hiện diện thánh thiêng liên tục khuyến khích chúng ta ôm ấp ơn gọi của mình với lòng can đảm. Ơn gọi của chúng ta đòi hỏi một sự cam kết trung thành vốn cần được làm mới lại mỗi ngày. Hành trình ơn gọi của chúng ta không thiếu vắng thập giá: không chỉ nơi những nghi ngờ ban đầu mà còn cả những cám dỗ thường xảy ra trên đường đời. Cảm giác thấy mình không hợp với môn đệ của Đức Kitô theo ta suốt đời. Tuy nhiên, anh ấy hay cô ấy lại biết sự giúp đỡ ân sủng của Thiên Chúa.

Lời của Thiên Thần ngự trên những nỗi sợ hãi của con người, giải tỏa chúng bằng sức mạnh của Tin Mừng. Theo đó, chúng ta được báo trước: cuộc sống của chúng ta không phải là cơ hội thuần túy, hay chỉ là cuộc đấu tranh sinh tồn, mà mỗi chúng ta là một câu chuyện vốn được Thiên Chúa mến yêu. Chúng ta đã “tìm thấy ân sủng trong ánh mắt Thiên Chúa”, nghĩa là Đấng Tạo Hoá nhìn thấy vẻ đẹp độc đáo trong con người chúng ta, và Ngài có một kế hoạch tuyệt vời dành cho chúng ta. Thấy được sự chắc chắn này, tất nhiên chúng ta không giải quyết được tất cả các vấn đề, cũng không mất đi những thứ không chắc chắn. Nhưng nó có sức mạnh để biến đổi sâu sắc cuộc sống của chúng ta. Không biết về ngày mai, đối với chúng ta, không phải là một mối đe dọa tối tăm mà chúng ta cần vượt qua, nhưng là thời gian thuận lợi để chúng ta sống trọn vẹn trong ơn gọi riêng của chúng ta, và để chia sẻ nó với anh chị em của chúng ta trong Giáo Hội và trên thế giới.

4. Hãy can đảm trong giây phút hiện tại


Từ việc chắc chắn rằng ân sủng của Thiên Chúa luôn ở với chúng ta, cho chúng ta sức mạnh để can đảm trong giây phút hiện tại. Can đảm để đón lấy những gì Thiên Chúa yêu cầu chúng ta ở đây và lúc này, trong mọi lãnh vực của đời sống. Hãy can đảm để nắm lấy ơn gọi mà Thiên Chúa tỏ lộ cho chúng ta; hãy can đảm để sống đức tin của chúng ta mà không che giấu hoặc hạ thấp nó.

Vâng, khi chúng ta mở ra với ân sủng của Thiên Chúa, điều không thể trở thành hiện thực. “Có Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại được chúng ta?” (Rm8, 31). Ân sủng của Thiên Chúa chạm đến “lúc này” trong cuộc sống của bạn, “giữ” cho chúng con như chúng con là, với tất cả những nỗi sợ hãi và giới hạn của chúng con, nhưng nó cũng cho thấy những kế hoạch diệu kỳ của Thiên Chúa! Chúng con cần biết rằng ai đó thực sự tin tưởng vào chúng con. Xin hãy biết rằng Đức Giáo Hoàng có lòng tin vào chúng con, Giáo Hội tin tưởng vào chúng con! Về phần mình, chúng con hãy tin tưởng vào Giáo Hội!

Đối với người trẻ, Maria được ủy thác một nhiệm vụ quan trọng, chính xác bởi vì Maria còn trẻ. Người trẻ chúng con có sức mạnh khi chúng con trải qua một giai đoạn đầy tràn năng lượng. Hãy tận dụng sức mạnh và năng lượng này để cải thiện thế giới, bắt đầu với những thực tế gần gũi nhất với chúng con. Cha muốn những trọng trách được trao cho chúng con trong Giáo Hội; hãy can đảm chuẩn bị không gian ấy cho chúng con; và chúng con có thể được chuẩn bị để thực hiện những trách nhiệm này.

Cha mời gọi chúng con một lần nữa chiêm ngắm tình yêu của Mẹ Maria: một tình yêu chăm sóc, năng động và cụ thể. Một tình yêu đầy dũng cảm và tập trung hoàn toàn vào món quà của bản thân. Giáo Hội được thấm nhuần bởi những phẩm chất của Mẹ Maria, sẽ luôn là một Giáo Hội tiến lên, vượt qua giới hạn và ranh giới của chính mình để cho ân sủng Giáo Hội nhận được trào tràn. Nếu chúng ta cho phép gương mẫu của Đức Maria thực sự đánh động chính mình, chúng ta sẽ sống chân thành, vốn là lòng nhân từ thúc đẩy chúng ta yêu mến Thiên Chúa trên hết và trên cả chính mình, để yêu thương những người mà chúng ta chia sẻ cuộc sống hàng ngày. Và chúng ta cũng yêu những người có vẻ khó ưa. Đó là một tình yêu phục vụ và cống hiến, trước hết hướng đến yếu đuối và nghèo hèn nhất, tình yêu biến diện mạo của chúng ta ngập tràn niềm vui.

Cha muốn kết thúc với những từ thật hay của thánh Bernard nói trong một bài giảng nổi tiếng về mầu nhiệm Truyền Tin, những lời diễn tả sự mong đợi của toàn thể nhân loại đối với lời đáp của Đức Maria: “Các con đã nghe Đức Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai; các con đã nghe điều ấy không do người nam, nhưng lại bởi Chúa Thánh Thần. Thiên thần đang chờ đợi câu trả lời … Lạy Nữ Vương, chúng con cũng đang mong chờ lời từ ái của Mẹ… Trong lời ngắn gọn của Mẹ, chúng con được canh tân để được nhớ về cuộc sống … Đây là những gì mà toàn thế giới trông đợi, chúng con phủ phục dưới chân Mẹ … Xin Mẹ nhanh nghe lời chúng con.” (Bài giảng số 4, 8-9; Opera Omnia).

Các bạn trẻ thân mến, Thiên Chúa, Giáo Hội và thế giới đang mong chờ câu trả lời của chúng con trước lời gọi độc nhất mà mỗi người nhận được trong cuộc sống này! Khi Ngày Giới Trẻ Thế Giới ở Panama đến gần, cha mời chúng con chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ của chúng ta, với niềm vui và lòng nhiệt thành của những ai muốn tham gia vào cuộc phiêu lưu tuyệt này. Ngày Giới Trẻ Thế Giới dành cho những người can đảm! Nó không dành cho những người trẻ chỉ tìm kiếm sự thoải mái, và không dành cho những ai thoái lui khi có khó khăn phát sinh. Chúng con có chấp nhận thử thách không?

Từ Vatican, ngày 11 tháng 2 năm 2018

Chúa Nhật VI thường niên, Lễ Kính Đức Mẹ Lộ Đức

Phanxicô

Chuyển ngữ: Giuse Phạm Đình Ngọc SJ



Bài liên quan: Tôi sợ

Credit: The painting "Vision of Joseph" by James Tissot.


“Yêu” là tập truyện ngắn đầu tay của nữ tác giả Chân Thuyên, vừa ra mắt vào đầu Xuân 2018 (NXB Văn hóa - Văn nghệ TPHCM).

15 truyện ngắn trong tuyển tập này là những câu chuyện tình của người trẻ được diễn đạt một cách nhẹ nhàng, trong sáng, như tác giả nhấn mạnh ngay ở lời ngỏ, đó là “những cảm xúc yêu thương chân thành và hướng thiện”.



Quả là hướng thiện khi Chân Thuyên để các nhân vật của mình dù có phải trải qua những đổ vỡ trong tình yêu với niềm đau nhưng rồi cuối cùng cũng tìm được tình yêu mới hoặc xoa dịu được vết thương lòng khi vượt thoát khỏi nỗi buồn và sự ích kỷ để chấp nhận “vui với hạnh phúc của người mình yêu”. Đó cũng là thông điệp tác giả muốn gởi gắm đến bạn đọc, như cô tâm tình: “Với ‘Yêu’, các bạn không chỉ cảm nhận niềm vui trong những cảm xúc yêu thương hướng thiện mà còn mong muốn trao tặng nhau niềm hy vọng, tình yêu thương, những lời khích lệ, những việc làm tốt và cả lòng biết ơn…”.

Là một tác giả Công giáo nên có truyện, Chân Thuyên viết với những chi tiết “đặc sệt con nhà đạo” như “Hoa hồng cho đêm Giáng Sinh”. Hay cả trong một số truyện dù không lộ rõ ngôn từ nhà đạo nhưng sự quan tâm của các nhân vật tới người kém may mắn (các cụ già ở trại dưỡng lão, các em nhỏ ở mái ấm, lớp học tình thương…) cũng chính là trong tinh thần của người Kitô hữu.



“Dù chúng ta không hoàn hảo nhưng chúng ta hãy luôn nỗ lực yêu thương bằng một tình yêu hoàn hảo”, với tâm tình ấy, nữ tác giả mong tập truyện sẽ như một món quà cho những bạn trẻ trong dịp lễ Valentine (14.2) sắp tới.

Tiểu Hoa
Nguồn: www.cgvdt.vn

Độc giả có thể tương tác với Chân Thuyên tại blog cá nhân của cô tại địa chỉ: http://chanthuyen.vn/

Ai mang trong mình tấm linh hồn trời đất
Ai giữ ngoài kia vận mạng một đất trời
Cát sỏi có thật biết vô tư
Lá xanh có thật biết ủ sầu
Tất cả là có có không không 
Lẫn lộn trập trộn 
Khi thân ta một cây đời biết đập nhịp yêu thương 
Những nhịp đập được khơi từ "huyền nhiệm"
Mà "huyền nhiệm" là chi giữa vạn điều hữu thực
Thân cây khô
Đã chết trong thống khổ
Thế mà nay
Đang nở Đoá Tiêu điều!

Đoá Tiêu điều sao lung linh một bản thể
Chẳng thể chối từ ngôi vị được đặt để
Và nhục thể chẳng thể bị coi là bổ báng
Nó dẫn ngôi vị tiến vào
Được đất trời cúi chào cung nghinh
Cái hạn hẹp vẫn cứ ngọt ngào ứa tuôn tự trong bao ánh mắt
Chàng xứng hợp hào hoa và nàng chuyển mình trong hạnh duyên nhung nhã
Cặp đôi đã kết thành một gia đình khai phá 
Muôn chiều kích tương quan ngẫm nghe ra ngồ ngộ

Thực hữu trong từng giây hay chốc lát
Của ngày qua
Của hôm nay
Cho khẳng định bến bờ miên viễn
Vì tương lai là cái tất nhiên một phận người.

Kìa Đoá Tiêu Điều vẫn rộ nở
Trời tưởng chừng đóng tắt mà đất vẫn bật mở
Ôi nguyên lý vĩnh hằng khiến đất trời trăn trở
Sự sống vũ hoàn luôn chung tay một khí thở
Này rực chói những biển băng
Này hoắm sâu những lỗ đen đổ vỡ
Nguyên lý lớn với định đề hớn hở
Tất cả cho một cõi sống cân bằng.

Đoá Tiêu Điều khiến ta nhướng mắt tới cao thăng
Một thế giới âm thầm xây từ muôn muôn huỷ hoại
Tất cả cho con người vươn lên
Tự thâm tâm chứ không từ thân xác
Đoá Tiêu Điều triển nở 
Đã vỡ hoang 
Làm đất khai sinh cho vạn đoá linh hồn
Đoàn con riêng 
Của Đấng Càn Khôn.

Dã Tràng Cát
Làng Quy Hoà 

Quy Nhơn 26/1/2018

ÔNG BẢY NHỎ


(Mã số: 18 - 011) 



1.


Ngày ấy, sau biến cố 1954, dòng họ của ông Bảy Nhỏ quyết định vào Nam sinh sống. Ông nội của ông quyết định đổi hết gia tài lấy con tàu gỗ cũ. Sau khi sắp xếp ổn thỏa, cả nhà ông lên tàu xuôi vào Nam theo tiếng gọi của lương tâm, thà bỏ quê hương xứ sở chứ không chịu bỏ đạo. Quyết định của ông nội đã làm thay đổi vận mệnh của cả dòng họ nhà ông.

Theo dòng người xuôi vào Nam, gia đình ông Bảy căng buồm ra đi không biết ngày nào trở lại, cũng không biết mình sẽ đỗ ở bến nào. Suốt mấy tuần liền lênh đênh trên biển, thuyền của gia đình ông đã đến vùng đất Gò Thị. Đây chẳng phải là đích đến đã dự tính trước của gia đình ông. Theo ý của ông nội, cả nhà ông phải chạy đến tận miền Nam, vì nghe nói trong đó làm ăn dễ dàng. Tuy nhiên, nhờ một trận cuồng phong của biển mà cả nhà ông đã bén duyên với vùng đất này. Thật người tính không bằng trời tính! Chiếc tàu gỗ đã ghé vào đầm Thị Nại trú ẩn, rồi men theo bờ, đi dần vào vùng đất Gò Thị. 

Khi ấy, Gò Thị là một vùng đất ven đầm, cây cối um tùm, đất đai trù phú, lắm cá nhiều tôm, rất thích hợp để sinh sống. Nhìn chung quanh, dân cư ở đây vẫn còn thưa thớt. Người dân sống đơn sơ chân thành nhưng không có vẻ gì là nghèo khổ cả. Họ dựng ở ngay giữa làng một ngôi nhà thờ vững vàng khá rộng. Sớm sớm chiều chiều, họ qui tụ với nhau trong ngôi nhà thờ để đọc kinh xem lễ sốt sắng. Đối với họ, mỗi khi nghe tiếng chuông nhà thờ là mỗi khoảnh khắc họ tạ ơn Chúa với lời kinh Truyền Tin. Cả ngày, không có sinh hoạt nào qui tụ đông đủ và vui vẻ bằng việc đến nhà thờ. Cho nên, gia đình ông Bảy định cư lại đây thật là phù hợp với ước muốn an cư lạc nghiệp và lòng đạo đức thiêng liêng đã có truyền thống lâu đời trong gia đình.


Cứ thế, gia đình ông đã sống trên vùng đất Gò Thị này hơn 60 năm. Trải qua nhiều đời, đến đời của ông Bảy và con cháu, mọi thứ đều thay đổi. Tuy không bằng những khu phố hào hoa nhưng Gò Thị cũng đầy đủ tiện nghi sinh hoạt vui chơi. Đủ thứ dịch vụ đã mọc lên trên mảnh đất đầy cây cối, lau sậy này. Trước nhà ông Bảy nhỏ, cái khu đất trũng ấy cũng được qui hoạch xây dựng đủ thứ dịch vụ. Nào là cà phê, bi da, karaokê… và nhiều thứ khác nữa. Tuy nhiên, cách chỗ đó không xa lại có một khu đất rộng hơn, cũng đầy đủ tiện nghi để dành cho người chết.

2.


Một hôm, sau những chén rượu ở nhà ông Thịnh về, Bảy Nhỏ nằm ngủ lăn quay trên chiếc chõng tre ngoài hè. Ông không biết rằng không khí buổi chiều hôm nay thật mát mẻ. Bởi hồi xế chiều, trời có đổ ít mưa, không khí không còn oi nóng như mấy ngày trước. Với lại, trời đã chặp tối, cái không khí lành lạnh nhè nhẹ làm người ta sướng hết chỗ nói. Thế mà toàn thân ông lại toát đầy mồ hôi, tóc dựng đứng lên từng đợt. Cái miệng tu hít liên hồi theo nhịp thở. Ông ngủ mê mệt đến nỗi chẳng biết trời trăng mây gió gì hết. Trong giấc ngủ, ông cũng chẳng biết gì ngoài một giấc mơ kinh hoàng.


Đang ngủ, Bảy Nhỏ thấy mình đứng dậy đi theo tiếng gọi từ xa xa. Ông bước đi chậm rãi, ra khỏi vườn xoài, rẽ qua khu phố ăn chơi. Tại đây, ông nhìn thấy biết bao nhiêu trai gái đang vui chơi nhảy múa. Đứa đầu xanh đầu đỏ, đứa xăm trổ đầy mình, đứa xỏ tai xỏ mũi… Tất cả đều răm rắp theo lệnh của bà Tám Béo. Bà chỉ bên trái, quát bên phải, chẳng đứa nào dám hó hé. Thế nhưng ông vẫn cứ đi, dù cho bà Tám có gào thét, chửi rủa đủ thứ.


Bảy Nhỏ vẫn cứ đi, qua hết phố ăn chơi đến thành phố chết. Bỗng nhiên, giữa thành phố ấy hiện ra một ngôi mộ đen rất lớn. Nó lẫn trong đám mây đen đầy âm khí. Trên ngôi mộ ấy lại hiện ra một con người lạ lẫm, ghê rợn. Nó vận đồ đen, có bảy đầu đầy lửa cháy rừng rực. Bảy cái đầu đều là đầu chó. Cái đầu thứ nhất trông có vẻ kênh kiệu lắm. Nó luôn khạc ra lửa. Cái thứ hai trông có vẻ gầy gò, khắc khổ và cay nghiệt. Cái đầu thứ ba trông múp máp, đẹp đẽ, lém lỉnh, mắt liếc ngang liếc dọc. Cái thứ tư luôn cúi mặt, trông có vẻ căm hờn lắm. Cái thứ năm, miệng luôn nhai nhốp nhép một thứ gì đó trong miệng, trông như muốn nuốt hết tất cả. Cái đầu thứ sáu có đôi mắt rực lửa, nó nhìn đăm đăm vào Bảy Nhỏ, miệng đay nghiến. Còn cái đầu cuối cùng ngủ gà ngủ gật, lâu lâu nó tỉnh giấc, ngáp dài rồi lại ngủ. Tất cả góp vào sự dữ dằn đáng sợ, đáng gớm ghiếc của nó. Ở giữa những cái đầu dữ dằn ấy, có một cái đầu nhỏ xíu, trắng toát. Đó là cái đầu của ông Thịnh. Một cái đầu lý lắc, nhưng nó điều khiển tất cả những cái đầu kia. Nó lòi ra hô hoán, ra lệnh tất cả tấn công Bảy Nhỏ.
- Tiến lên, giết nó, giết chết nó! Giết quách thằng Bảy Đồng mau mau…!


Bảy Nhỏ vẫn cứ đứng trân người ra quan sát cái hình thù gớm ghiếc kia là gì. Ông chỉ nghe chúng đòi giết thằng Bảy Đồng nào đó. Thằng Bảy Đồng có liên can gì đến mình. Mặc kệ cho chúng muốn giết sao thì giết. Ông vẫn cứ đứng cho đến khi chúng tiến đến gần và ra tay vồ lấy ông. Ông mới giật mình nhận ra chúng muốn giết mình. Bây giờ, ông thấy tên Bảy Đồng nghe quen lắm. Ông lục lại trí nhớ. Bảy Đồng, Bảy Đồng… 
À, tên của mình chứ còn ai nữa! Sao nó lại gọi mình bằng cái tên đã bị chôn giấu bấy lâu nay. Mình đã là Bảy Nhỏ rồi mà! Bảy Nhỏ, cái tên đúng với tính cách lông bông của ông. Trước kia, ông đâu phải là Bảy Nhỏ. Ông trở thành Bảy Nhỏ bởi ông cứ lông bông, lấy hết bà này sang bà nọ, để cuối cùng chỉ sống hiu quạnh một mình. Ông lại chẳng chịu chí thú làm ăn như ông nội và cha mẹ mà lại nhảy hết nghề này đến nghề khác, để cuối cùng phải đi mò tôm bắt ốc sống qua ngày. Ông còn vô trách nhiệm, chẳng biết chăm lo đạo hạnh, lễ nghĩa gì cả, chỉ biết chơi bời lêu lổng. Ông cũng chẳng biết lo cho gia đình vợ con, chỉ biết đùn đẩy công việc cho người khác. Bấy nhiêu sự ấy làm thành tên Bảy Nhỏ, chuyên “bỏ nhảy” mỗi khi có chuyện động đến mình…

Ông cũng biết nhưng bấy lâu nay ông chẳng buồn để ý. Chẳng lẽ ông tồi tệ như thế sao? Cái hình thù gớm ghiếc kia, sao lại gọi tên thật của ông. Cái tên Đồng mang đầy ước muốn đỗ đạt thành tài của cha mẹ đặt nơi ông. Vì thế, ông đau đớn trong lòng muốn ngã quỵ nhưng cái con người kia cứ cố đuổi giết ông. Ông vắt chân lên cổ chạy, chạy hết sức mà vẫn cứ thấy nó chạy theo. Tiếng giết vẫn phóng về phía ông. Ông thở hồng hộc, toát hết cả mồ hôi. Trong vô thức, ông gào lên: “Chúa ơi! Cứu con!”… Ông giật mình tỉnh giấc trong sợ hãi tột độ, mồ hôi, nước mắt đầm đìa trên khuôn mặt.


Trên chiếc chõng tre, ông vẫn còn nằm im như chết, tay chân bủn rủn, cả thân mình ướt đẫm. Ánh nắng sáng đã chói chang đầy người ông, chiếu vào mắt ông. Con vện nằm gần đó vẩy vẩy đuôi mừng chủ đã hết say. Nó liếm vào lòng bàn chân ông mấy cái nhồn nhột. Ông dần tỉnh. Dù mệt, ông cũng đủ nhớ hôm nay phải đi cảo hồ tôm cho nhà ông Báu Già. Ông này là chủ vựa tôm lớn nhất vùng Gò Dài và cả vùng núi Xương Cá nữa. Ông có nhiều tiền lắm. Ông hay lên khu phố ăn chơi của bà Tám Béo để xả hơi. Cái bụng béo của ông căng tròn như cái trống đình. Nhờ cái bụng ấy mà ông ăn nên làm ra và ăn chơi cũng dữ. Ăn chơi lắm nên chuyện ông già trước tuổi cũng là lẽ đương nhiên, dù ông ta chỉ mới chừng bốn mươi.


Bảy Nhỏ đứng dậy, xách cái giỏ đựng tôm, dắt con vện đi ra khỏi nhà. Ông đến thẳng hồ tôm của ông Báu Già. Khi đến nơi, người ta đã bắt được nửa buổi. Sau mấy lời chào qua loa, ông sà xuống như con rái cá tìm mồi. Hai tay ông đưa lia lịa kéo lưới bắt tôm cá rất điệu nghệ. Lòng ông bắt đầu vui trở lại. Ông vui và sống với nghề này ngay từ khi còn nhỏ. Dẫu không muốn biến nó thành kế sinh nhai lâu dài nhưng sự thật bây giờ ông chỉ biết gắn bó với nó. Cho nên, lâu dần nó trở thành niềm vui không thể thiếu trong ngày. Hôm nào không động đến tôm cá, lòng ông buồn rười rượi. Cho nên, giờ này ông thực sự được vui sống trong cuộc đời. Niềm vui này hơn cả những lần vui chơi tại khu phố sung sướng của Bà Tám. Cứ thế, ông say sưa ngụp lặn trong hồ tôm cho đến trưa, rồi đến chiều, cho đến bữa nhậu lai rai cuối ngày với ông Báu Già và nhóm người làm mướn.


3.


Sau khi lãnh tiền công và sau mấy lượt rượu đế, Bảy Nhỏ đi xiên xẹo về nhà rồi ngã lăn trên chiếc chõng ngoài hè ngủ say. Một lần nữa, ông lại thấy y hệt giấc mơ của ngày hôm qua. Lần này, bảy cái đầu chó dữ dằn hơn. Tuy nhiên, cái đầu chỉ huy lần này lại là cái đầu đen của ông Báu Già. Cái đầu đen nhặn xị há hốc cái miệng rỗng tuếch chẳng còn cái răng nào nữa. Nó cứ thét ra lửa:
- Giết! Giết chết thằng già lựu đạn đó! Thằng Bảy Đồng vô tích sự, đen đúa, xấu xí. Nó chẳng đáng là con người nữa. Giết, giết…!


Nghe lệnh, bảy cái đầu chó rứt ra, lao thẳng đến chỗ Bảy Nhỏ. Nó muốn cắn, muốn xé xác ông ra làm trăm mảnh cho tan đời ông luôn. Thấy thế, ông bắt đầu chạy. Lần này, ông không chạy qua khu phố vui vẻ nữa, dù bà Tám Béo có kêu gào, mời gọi ông vào lánh nạn. Ông rẽ phải, chạy thẳng trên con đường dẫn đến Nhà Thờ. Con đường này từng là bạn của ông trong gần nửa cuộc đời. Thế mà hôm nay nó lạ lẫm và hoang vu đến thế. Điều này làm ông sợ hãi hơn, cắm đầu cắm cổ chạy miết. Nhưng lạ một diều, càng chạy đến gần Nhà Thờ, ông càng thấy mình khỏe hơn, hai chân nhẹ bẫng. Ông nhìn lên tháp Thánh Giá và chạy như bay. Ngược lại, những cái đầu chó càng lúc càng yếu sức. Nó muốn lồng lên chạy thật nhanh nhưng phí sức. Chúng càng chạy càng yếu. Chúng nhìn thấy ánh sáng chói lòa từ Nhà Thờ tỏa ra thì mất hết sức lực rồi dần biến mất. Bây giờ, ông được hai Thiên Thần nâng lên và đem đặt trước cửa tiền đường Nhà Thờ. Ông xúc động và bỡ ngỡ hết sức. Dẫu rằng vẫn khung cảnh ấy, vẫn ngôi Nhà Thờ và hàng ghế gỗ cũ đen bóng ấy, nhưng ông lại thấy ấm cúng và hạnh phúc không tả nổi. Ông từ từ đi vào Nhà Thờ.


Trước mặt, ông không còn thấy cảnh thê lương của đám tang vợ và các con ông nữa. Chuyện là năm ấy gia đình ông mắc dịch chết hết. Từ vợ đến những đứa con thân yêu đều lần lượt ra đi. Vỗn dĩ ông rất sùng đạo. Ông đã cầu nguyện tha thiết, thâu đêm suốt sáng cho gia đình tai qua nạn khỏi. Thế mà chẳng còn ai ở lại với ông. Cũng từ đó, đức tin của ông vào Thiên Chúa toàn năng dần dần vơi cạn. Ông bỏ ăn bỏ uống, bỏ tất cả mọi thứ. Cái thú để ông sống chỉ còn có rượu. Ông chìm trong rượu, chìm trong bóng tối, chẳng còn muốn biết mình là ai. Lúc trước, dẫu ông có lông bông một chút nhưng chưa bao giờ bỏ Chúa, còn bây giờ trong ông chẳng còn Chúa nào cả. Cái cảm giác chẳng còn Chúa, đối với ông thật là sảng khoái. Ông sẵn sàng bỏ quách Chúa để giữ lấy mạng sống và đày đọa trong chén rượu. 

Mỗi lần đi qua Nhà Thờ, ông vẫn luôn muốn nhìn lại khuôn mặt của Chúa Giêsu trên Thánh Giá nhưng ông chẳng dám. Ông sợ mình lại nhớ đến nỗi đau năm xưa. Ông lại nghĩ, Chúa sẽ chẳng tha cho ông vì ông đã bội bạc với Ngài. Ông chẳng hy vọng gì về việc Chúa sẽ tha thứ nên ông đã bít các lối về của mình… Thế mà hôm nay, Chúa lại đưa tay ra cứu lấy ông. Ông có xứng đáng không. Ông vừa vui mừng, vừa hạnh phúc, vừa xấu hổ. Ông tiến đến trước Thánh Thể Chúa và sụp lạy. Lòng ông thổn thức, khóc òa lên. Bỗng Chúa Giêsu hiện ra và nói.
- Này con, con đến đây làm gì! Những cái đầu chó không còn theo con nữa sao?


Bảy Nhỏ ngước mắt lên tha thiết.
- Ôi! Lạy Cha! Con sợ quá! Con không biết mấy cái đầu chó ấy từ đâu mà ra. Nó ghét con lắm. Nó cứ chạy theo con và muốn giết con. Xin Cha cứu lấy con!...

Chúa Giêsu âu yếm nhìn đứa con bé nhỏ.
- Con ơi, chẳng phải con yêu thích nó sao? Nó là của con mà! Nó không có giết con. Con đã từng kiêu ngạo, từng tằn tiện với Cha và anh em con, từng ăn chơi lăng loàn tại khu phố vui vẻ, từng giận dữ độc ác với vợ con và mọi người, từng ham ăn mê uống nhậu nhẹt, từng ganh ghét anh chị em con vì họ giàu hơn con và vì thế con ghét luôn cả Cha, không còn đếm xỉa gì đến Cha nữa. Đã bao nhiêu năm rồi, con đã không đến thăm Cha nhưng Cha vẫn luôn ở đây đợi con.

Nghe những lời ấy, lòng Bảy Nhỏ đau khổ tột cùng. Ông ôm chân Chúa Giêsu khóc hết nước mắt.
- Lạy Cha, xin Cha tha tội cho con, vì con tội lỗi quá nhiều!...
- Này con - Phaolô Nguyễn Thành Đồng - con hãy đứng lên mà về bình an. Vì con đã được tha tội rồi. Chính con đã mở đường cho Cha đến với con. Con xứng đáng được nhận sự tha thứ và yêu thương.

Bỗng dưng Bảy Nhỏ thấy người mình nhẹ nhõm, thân mình đầy ánh sáng. Ông được hai Thiên Thần cất lên, cao dần cao dần và biến mất. Trong không trung, chỉ còn nghe tiếng cười vui rộn rã của trẻ con lẫn vào tiếng khóc hạnh phúc của người phụ nữ bên cạnh ông.

4.


Bảy Nhỏ cười vang trong giấc ngủ và giật mình thức dậy khi nghe tiếng gà gáy canh ba. Ông mở mắt và chăm chú nghe tiếng gà gáy đến mấy lượt. Ôi, sao trong sáng và hay đến thế! Ông còn đang miên man cảm nếm hạnh phúc đã bấy lâu ông bỏ quên thì tiếng chuông nhà thờ đổ vang. Ông giật mình, nghe nhoi nhói trong lòng một cảm giác đau đớn nhưng sao vô cùng dễ chịu. Đã bao nhiêu lần tiếng chuông nhà thờ đổ mỗi sớm mỗi chiều mà nay ông mới nghe. Tiếng chuông cảnh thức ấy giúp ông ôn lại bao nhiêu chuyện đã xảy ra trong quá khứ. Ông đã trách Chúa oan uổng sau cái chết của vợ con ông. Bởi trước sự mất mát, ông chỉ thấy đau khổ của ông mà chẳng thấy đau khổ của người khác. Năm đó, cả làng bị dịch, nhà nào cũng có người chết chứ đâu có riêng nhà ông. Ông lại chẳng thấy những ơn lành Chúa đã ban cho gia đình ông kể từ khi lập nghiệp tại vùng đất này. Ông đã để cho đau khổ choán hết chỗ của Chúa trong cõi lòng mình. Thế là tiếng chuông nhà thờ đã không còn vang lên trong lòng ông nữa mãi cho đến nay.
- Tiếng chuông hôm nay sao giòn giã và vui thế nhỉ? Tiếng chuông lòng ta sao!


Bỗng dưng, Bảy Nhỏ sực nhớ hôm nay là Chúa Nhật. Ừ phải! Tiếng chuông hôm nay to và giòn giã hơn ngày thường nhiều. Tiếng chuông Chúa gọi con cái của mình đi thờ phượng và cầu mong hạnh phúc. Tiếng chuông thức tỉnh bao tâm hồn đen tối ngu muội. Tiếng chuông xóa tan bóng đêm của ma quỷ, thế gian và xác thịt.
- Thật âm vang và ấm lòng con quá, Chúa ơi!


Chúa Nhật, Chúa Nhật phải đi lễ, phải nghỉ việc xác. Ông đã quên điều này từ bao nhiêu năm qua. Nay lòng ông lại xôn xao như những ngày đầu được rước Chúa vào lòng. Ông đứng dậy, muốn đi đến nhà thờ để nối lại các mối quan hệ đã bỏ quên từ lâu. Ông muốn đi lễ, muốn được xưng tội rước lễ như mọi người. Ông phải tự đi, không cần ai khuyên nhủ dẫn dắt. Ông đã đủ thấm cái khổ nhục khi bỏ Chúa. Ông đưa tay với lấy cái khăn, bước ra lu nước sau nhà, rửa mặt và tắm gội. Ông vận quần áo đẹp nhất. Ông thấy mình đĩnh đạc, đẹp đẽ như thời trai trẻ. Ông hét lên.
- Bảy Đồng! Phaolô Nguyễn Thành Đồng! Nào đứng lên đi gặp Chúa! Nào chúng ta cùng đi lễ!...


Ông hớn hở bước ra đường, vui mừng đi đến nhà thờ.
Đường càng lúc càng đầy người và trời càng lúc càng sáng dần.

VÙNG CÁT TRẮNG 

Nhà thờ núi (nhà thờ Chính Tòa Nha Trang)

(Mã số: 18-037) 


1. 


- Bác ơi, cho con hỏi, ở gần đây có nhà thờ nào không ạ? 

- Có, cháu cứ đi tiếp, hơn cây số nữa là tới. Phía bên trái, ở trên núi ấy. 

Thịnh và Thoại lên xe đạp đi tiếp lên phía tây xã Bình Thạnh. Vừa thấy lấp ló mái ngói đỏ, Thịnh đã thấy vui trong lòng. Ai ngờ khi đến gần lại là mái ngói đỏ cong vút của ngôi chùa Long Tự. Hai anh em bắt đầu chán nản. Cái xứ gì mà chẳng thấy cái nhà thờ nào. Nhà cửa thưa thớt, cát trắng mênh mông, chung quanh chỉ có chùa với am. Từ sáng tới giờ, đây là cái chùa thứ mười rồi đó. Hỏi nhà thờ mà người ta toàn chỉ nhà chùa thôi. Trắng thật là trắng mà! Đến tôn giáo cũng trắng luôn. 

Cái bụng của hai anh em thấy tình thế nan giải lại reo lên. Đáng lẽ nó phải im vào giờ này chứ. Mệt quá sức đi! Về thôi… Về cũng được nhưng đã đi gần hết cái xã này rồi. Cố thêm lần nữa biết đâu lại tìm thấy. Nhưng để chắc ăn cần thêm hai chữ Công giáo. Thoại nhìn thấy một chú bán kem gần đó liền hỏi. 

- Chú ơi, chú có biết nhà thờ Công giáo nào ở gần đây không ạ?... 

Theo hướng chỉ của anh bán kem, hai anh em nhảy lên xe đạp đi vun vút. Vừa đạp vừa mừng, Thịnh hớn hở như được bữa cơm miễn phí. Thoại ngồi sau cũng phụ đạp với nó. Nửa tiếng sau, hai anh em mới tới được ngôi nhà thờ nho nhỏ ở trong góc xóm Cù Lao. Nhìn bề ngoài, hai anh em thấy cây Thánh giá lớn được đặt ở trên đỉnh nhà thờ, bên cạnh có tháp chuông. Bên trong nhà thờ có hai hàng ghế được kê đều đặn nhưng trên cung thánh, không có nhà tạm, thánh giá không có ảnh chuộc tội, không có tượng Đức Mẹ và thánh cả Giuse. Thịnh bắt đầu ngờ ngợ, nhà thờ Tin Lành chăng? Để cho chắc, Thịnh bắt chuyện với một anh thanh niên ăn mặc đàng hoàng đang chuẩn bị chở cả nhà ra về. 

- Anh ơi, cho em hỏi, đây có phải là nhà thờ Công giáo không ạ? 

- Ừ đúng rồi, nhưng cách đây mấy chục năm lận! Bây giờ, nơi này là nhà thờ Tin Lành em à!... 

Rồi anh bắt đầu cho hai anh em biết, trước năm 54, nơi đây là làng Công giáo đông đúc lắm. Sau 54, mọi người bỏ chạy vào Nam hết. Ông cha ở nhà thờ này cũng dẫn những người còn lại đi lập nghiệp ở chỗ khác. Cho nên, mấy mươi năm nơi này bị bỏ hoang. Cho đến khi có một mục sư đến đây giảng đạo. Những người theo đạo ở đây, toàn là dân di cư, mới lấy ngôi thánh đường này làm nơi sinh hoạt và cử hành “Tiệc Bẻ Bánh”. Tuy nhiên, những người chưa biết vẫn cứ nhớ là nhà thờ Công giáo. 

Sau khi đã kể đầu đuôi câu chuyện hình thành ngôi thánh đường, anh thanh niên bắt đầu sứ vụ rao giảng của mình. Anh hăng hái giảng giải lời Chúa mà anh mới được mục sư chia sẻ trong “Bữa Tiệc” vừa xong. Anh còn không ngại mời Thịnh và Thoại tuần sau đến tham dự với anh và cộng đoàn. Anh trao danh thiếp và không quên tặng cho hai anh em mỗi người một quyển Kinh Thánh. Sau đó, anh còn giảng cho hai anh em bài dài khi nghe Thịnh tỏ ra e ngại vì đến nhầm nhà thờ Tin Lành. Trước khi chia tay, anh kết luận rằng: 

- Tin lành hay Công giáo có sao đâu em! Mình có lòng đi tôn thờ Chúa ngày Chủ nhật là tốt rồi. Chẳng phải Đức Kitô đã dạy: “Ta chỉ cần tấm lòng chứ không cần hy lễ” (Mt 9,13). 

Thế là ngày hôm ấy, thay vì nghe linh mục giảng giải Lời Chúa, Thịnh và Thoại được anh Tin Lành giảng cho nhiều sự trên đời. Mà cũng phải khâm phục anh. Nếu so về lòng tin và cách sống đạo thì hai anh em thua xa anh. Chỉ nội việc thuộc và giảng Lời Chúa thôi, anh đã ăn đứt hai anh em rồi. Cho nên, khi chia tay anh, hai anh em thấy lòng buồn vời vợi. 


2. 


Càng trưa, trời càng nắng gắt, hai anh em mệt mỏi quay lại với công cuộc tìm kiếm nhà thờ. Hai anh em bước lên xe đạp trở lại con đường lớn. Vừa ra đến nơi, mặt trời đã đứng bóng. Vừa nóng vừa khát, hai anh em ghé vào quán nước mía bên đường. Mới ngồi xuống ghế, Thịnh liền kêu bốn ly nước mía. 

- Uống cho đã khát. Từ sáng tới giờ có được miếng nước nào đâu. Thiệt mệt chết đi được! 

- Mệt thiệt chứ! Cậu nhìn ra xa xem, toàn cát là cát, cát trắng đến chói mắt. Thế mà ở đây người ta vẫn sống bình thường. Cái ông nhà nước mình mở khu công nghiệp ở chỗ này cũng thật là lạ. Chỗ thuận đường thuận xá không mở, mở ở đây làm gì. Họ muốn người dân ở đây trở thành công nhân hết thì phải. Mà nghe đâu nhà nước đầu tư dữ lắm, cả nhà máy lọc dầu, nhà máy luyện cán thép, cả sân bay quốc tế nữa. Thiệt là tiền đống mới làm được! 

- Lúc xin việc, cứ tưởng ở đây sầm uất như ở Sài Gòn. Ai ngờ mới quá! Mới đến chẳng có thứ gì để vui chơi. Nhà thờ nhà thánh gì cũng chẳng có. Nếu biết trước ở quách trong Sài Gòn hay Bình Dương thì sướng hơn. Mệt ơi là mệt! Chán ơi là chán!... - Thoại thở dài. 

Bà bán nước mía vừa bưng nước ra vừa nghe ngóng câu chuyện của hai anh em. Bà nghe hai anh em muốn tìm nhà thờ nên mới sốt sắng chỉ vẽ. Theo lời bà, ở đây có nhà thờ thầy Bảy và nhà thờ cha Thông. Nhà thờ của thầy Bảy cách đây độ hơn cây số, nằm trong vườn điều, phía xóm Bình Đông. Còn nhà thờ của cha Thông gần đây thôi, nằm trên một đồi cát cao, chung quanh có trồng rất nhiều thông liễu. Bà cũng như mọi người ở đây đều biết thầy Bảy rất cao tay. Mọi việc cúng kiến của cái xóm chài lưới này và các xóm lân cận đều do thầy làm hết. Nghe đâu thầy còn được mời đi cúng ở tận Bình Dương, Hà Nội, Sài Gòn gì ấy. Linh lắm! Người ta tạ ơn thầy đến tiền tỷ luôn. Thầy lại rất độ lượng, hay thương người. Thầy hay lấy tiền của mình giúp đỡ mọi người chung quanh, nhất là những nhà nghèo, các em cô nhi. Cái con đường bê-tông này cũng có phần công sức của thầy. 

Phần cha Thông, Cha đã sống ở Bình Thạnh này mấy chục năm rồi. Từ năm 75 đến giờ, cha chưa được đưa đi chỗ khác. Hình như cái số của cha gắn bó với mảnh đất nghèo này. Ngôi nhà thờ của cha đã đã sập hồi trận bão năm 1984. Cha không có tiền để xây lại nên lấy nhà ở của mình làm nhà thờ. Năm nay, cha đã già lắm rồi. Những việc làm của cha đối với mọi người ở đây tốt lắm, không phân biệt lương giáo gì cả. Có điều, hằng ngày cha chỉ thui thủi một mình thôi. Chiều đến mới có mấy người đạo hữu đến dự lễ. Lễ xong là họ về hết. Chắc cha có chết cũng chẳng ai biết. 

Và có lẽ lâu ngày mới có người chịu nghe bà trút bầu tâm sự nên bà “khuyến mãi” cho Thịnh và Thoại câu chuyện về “vùng đất trắng” này. Bà đưa tay gạt những giọt mồ hôi trên trán, thở dài rồi đi vào câu chuyện. Vốn dĩ bà chẳng phải là dân thường, chỉ vì thời cuộc nên đành phải bán nước mía kiếm sống thôi. Cho nên, mọi chuyện thế sứ ở vùng đất này bà đều rành rọt. Theo lời bà, từ trước năm 54 cho đến 75, cái vùng Bình Thạnh này được liệt vào vùng trắng, vùng chiến sự diễn ra liên miên giữa hai bên nam bắc. Ban ngày quân nam quản lý, ban đêm quân bắc cai quản. Cho nên, dân ở đây chẳng biết theo bên nào. Đành lòng, họ phải sống hai mặt để giữ nhà giữ cữa, giữ lấy tính mạng. Người nào nản quá thì chuyển vào thành phố sống hoặc xuôi vào Nam. Gia đình bà cũng lận đận lắm. Mấy anh chị em mang theo gia đình tứ tán khắp nơi, chỉ còn gia đình bà và ba má bà trụ lại đây. Có một thời gia đình bà cũng theo đạo Công giáo, đạo ông Diệm để mong yên lành làm ăn sinh sống. Sau vì chiến loạn nên bỏ bê luôn cho đến nay. Cái xóm đạo của cha Thông cũng tứ tán khắp nơi. Cha vẫn còn ở lại nơi này vì muốn duy trì một xóm đạo vốn dĩ phồn thịnh. Với lại cha không muốn con chiên của cha bị chết vì không có chủ chăn. Cha đã hy sinh cả cuộc đời để duy trì họ đạo cho đến ngày nay. 

Tuy nhiên, vùng đất này cũng dễ thương lắm. Nó có nhiều cát trắng bởi vì nó gần biển. Mùa gió nam, gió nồm đến là cát cứ từ ngoài biển bay vào. Cát bồi lần bồi lần thành đồi thành bãi rộng mênh mông. Thấy cát trắng chói chang thế nhưng cũng trồng được đủ thứ. Nào cây ăn trái, nào củ, nào hành, nào đậu, nào dưa, nào mè… mùa nào thức ấy. Người dân ở đây chỉ cần bỏ công khéo chăm bón thì thứ gì cũng có, cũng trồng được. Thêm nữa, biển ở đây rất đẹp và dịu dàng, bãi lại rất dài. Người dân tứ xứ tha hồ về đây tắm. Biển đẹp như Thiên Đàng vậy! 

Nghe bà bán nước mía nói hết câu chuyện, trời đã quá trưa. Hai anh em tính tiền rồi định trở về nhà. Tuy nhiên, Thịnh lại có ý khác. 

- Đàng nào thì cũng trưa rồi. Mình đến nhà thờ cho biết để tuần sau đi cho đỡ tốn giờ. 

- Ừ, thôi mình đi… Trời nắng quá nhỉ! 

3. 


Hai anh em bước lên xe đạp thẳng đến nhà thờ cha Thông theo hướng chỉ của bà bán nước mía. Con đường gồ ghề đầy sỏi đá, bên cao bên thấp, chỗ cứng chỗ mềm, lồi lõm đủ kiểu. Chiếc xe đạp cứ nhồi lên hụp xuống lia lịa. Ngồi phía sau, trên cái bagar sắt, Thoại đau cả mông, nhức cả lưng. Nó cứ la chí chóe mỗi khi xe vượt qua ổ gà. Mệt mỏi trên đoạn đường hơn cây số, hai anh em cũng đến được nhà thờ cha Thông. Vừa đến cổng, Thịnh định chạy xe lên nhà thờ thì hụt hơi vì thấy dốc cao quá. Nó nhảy xuống. 

- Tới nơi rồi ông cụ! Xuống xe dắt bộ lên thôi. 

- Ồ, dốc cao thế! Dốc cát nữa chứ. Nhà thờ ở trên này sao? Tớ chẳng thấy tháp chuông, thánh giá đâu cả. 

- Ừ, cứ lên trên đó xem sao hẵn nói! 

Đang khi hai anh em dắt xe lên thì có mấy người đi xuống. Họ thấy hai anh em là lạ mới hỏi. 

- Ê, hai em đi đâu thế? Làm gì mà lên nhà thờ vào lúc này? Trưa rồi, hai em để cho cha nghỉ, chiều hãy đến. 

Vừa nói, họ vừa dừng lại trước mặt Thịnh và Thoại. Hai anh em hết hồn, vừa ngạc nhiên vừa khó hiểu. 

- Dạ, tụi em đi kiếm nhà thờ Công giáo để đi lễ Chúa nhật. 

- Đi lễ à! Sao lại lên vào giờ này? Trưa rồi mà! 

Mọi người có vẻ nghi ngại lắm. Vì mấy tuần nay, cha già Thông luôn nói có người đến làm phiền. Lúc người này, lúc hội kia… lên kiếm cớ xin tiền cha. Biết cha chỉ có một mình, họ còn bày mưu tính cớ mua bán, lén lúc ăn trộm đồ của cha. Nhà của cha chỉ có mấy con chó, ít con gà con vịt nuôi cho vui, chúng cũng bắt dần đến hết. Có ít tiền cho người nghèo, chúng cũng lục lọi lấy mất. Cha chẳng biết làm sao, đành nhờ các giáo dân gần đó vào ở với cha. Hôm nay, mọi người thấy người lạ sờ sờ trước mặt nên ai cũng nghi ngại lắm. 

- Dạ, chúng em ở Bình Định mới ra đây làm việc hơn tuần. Chúng em đi tìm nhà thờ để dự lễ Chúa nhật. 

- Thiệt không?... - Người đàn ông hỏi. 

- Dạ thiệt! 

- Tên thánh hai cậu là gì nào? 

- Dạ, em là Giuse Lê Quốc Thịnh, còn đây là Phêrô Nguyễn Ngọc Thoại. 

Mọi người nghe những câu trả lời rành rọt của Thịnh thì bắt đầu tin. Họ chuyển từ ác cảm sang thiện cảm. Một trong hai đứa trẻ đi theo nhói người lên hỏi. 

- Hai anh đi làm xa vậy mà còn biết tìm nhà thờ để đi lễ. Em phục hai anh luôn. Ở đây, có nhiều người ở bên cạnh nhà thờ mà chẳng đi lễ buổi nào hết. Họ bảo “đạo tại tâm”. Đạo tại tâm là gì hả anh? 

Thịnh cắn môi suy nghĩ, thằng bé này sao già đời thế. Nó moi ở đâu ra câu hỏi hóc búa này để thử mình. Thịnh ề à rồi nói. 

- Đạo tại tâm là đạo ở trong lòng em à! Người ta nói thế là để biện hộ cho thói lười biếng của mình thôi. Đạo tại tâm thì không cần nói ra, không cần thể hiện ra bên ngoài, cứ theo lương tâm mà sống. Nói thế thì ai cũng có đạo. Nói thế thì anh chị yêu nhau không cần nói gì hết, không cần làm gì hết, cứ để thế người yêu sẽ hiểu. Tầm bậy không à! Ai mà hiểu được nếu người ta không thể hiện ra. Đại loại anh nghĩ được như thế. 

- Hoan hô anh! Anh nói hay quá à! 

Con bé em cũng không chịu thua kém thằng anh. Nó rống cổ chen vào. 

- Còn “có thực mới vực được đạo” là sao anh nhỉ? Ra ngoài chợ, em toàn nghe người ta nói câu ấy không à. 

Thịnh vặn óc suy nghĩ, lại là một đứa trẻ già đời. Chắc nó bị nhiễm bởi cái thói “quơ đũa cả nắm” của những người vô đạo hay là những kẻ sống đạo nguội lạnh, lòng tin chưa bằng hạt cải. Thịnh hơi bực trong lòng nhưng cố nhịn nở nụ cười lịch thiệp. Thịnh cố nhớ lại những điều được học trong lớp giáo lý hôn nhân ở Sài Gòn rồi hắng giọng nói. 

- Ừ, đại loại như vầy. Thực theo nghĩa hán việt là ăn. Nó còn có nghĩa khác là điều thật, sự thật. Còn đạo là đường, là tôn giáo, là đạo giáo chúng ta đang theo. Người ta hay dùng câu này để nhắm vào đạo Công giáo của mình. Họ cho các việc cầu kinh dự lễ là việc viễn vông, mê tín dị đoan. Nhưng thực chất là để chống phá đạo của mình. Có thể hiểu nghĩa của câu này theo hướng đúng là đạo phải gắn với thực tế đời sống thì mới giữ được, muốn giữ đạo thì phải giữ lề luật của lương tâm trước, đừng mê tín viễn vông… Như thế được chưa cô bé! 

Nghe Thịnh giảng giải thật hay, hai anh chị bắt đầu có cảm tình với hai anh em. Họ mới ngỏ lời: Anh tên Lắm, chị tên Thu, còn hai đứa là Như và Na. Vốn dĩ anh cũng chỉ là tân tòng. Ngày anh quyết định lấy chị, cả nhà anh ai cũng phản đối, nhất là ba anh. Ba anh phản đối cũng đúng lắm! Anh là con trưởng của gia đình, lại là cháu đích tôn. Anh bỏ đạo ông bà đi theo đạo Công giáo thì khác nào bỏ ông bỏ bà. Cái lý ấy làm anh đau đầu, chẳng biết giải thích ra làm sao. Tuy nhiên, nhờ kiên nhẫn, hai anh chị mới lấy được nhau sau mười năm ròng rã thuyết phục và chứng tỏ bằng đời sống. Hai đứa con của anh chị là kết quả tình yêu lâu bền mà Thiên Chúa đã ban tặng. Anh chị những ước mong hai đứa sẽ tiếp tục sống đạo thật tốt để không phụ lòng trông cậy của anh chị vào Chúa. Vì thế khi gặp được Thịnh và Thoại, hai thanh niên xa nhà, mà vẫn còn biết giữ đạo Chúa, cả nhà anh chị như được an ủi rất nhiều. Sau những lời tâm sự chân tình của đôi bên, hai anh chị dẫn Thịnh và Thoại lên giới thiệu với cha già. 

Vừa bước vào cửa phòng khách, mọi người đã nghe tiếng của cha già. 

- Đi đâu thế? Lại lên xin tiền nữa chứ gì! Hết rồi, ngày mai đến đi! 

- Dạ, chào cha! Con là Lắm đây. Con có chuyện muốn thưa với cha. 

- Chuyện gì gấp thế cậu Lắm! Để chiều được không, Cha đang đọc kinh trưa. 

- Dạ, con nói chút rồi đi liền! 

- Ừ, vào đi! 

Vừa nói, cha vừa bước ra phòng khách. Lạ quá, cha nhìn Thịnh và Thoại thì ngờ ngợ trong lòng. Hai ông này giống mấy ông ngày hôm qua quá! Mấy bữa trước cũng có hai anh thanh niên lên đây làm việc với mình. Tưởng là giáo dân ở đâu đến, ai ngờ lại là mấy ông đi xin tiền cho hội này hội nọ. 

- Đây là ai vậy cậu? 

- Dạ, hai anh này là công nhân ở Bình Định mới ra đây đi làm. Hôm nay Chúa nhật nên tìm đến nhà thờ mình để dự lễ. 

- Ừ, đi lễ gì mà muộn vậy... Chiều 5 giờ đến dự lễ đi con! 

- Dạ, hai anh mới tới nên chưa biết nhà thờ, chưa biết giờ giấc. Cha thông cảm! 

- Ừ, thôi được rồi!... 

- Dạ! Con chào cha. 

- Chào các con. Chúc các con đi bình an. 

4. 


Ra khỏi nhà cha, đồng hồ đã chỉ một giờ chiều. Cái nắng gay gắt mùa hè cứ ập xuống những con người bé nhỏ. Thịnh ngước nhìn xung quanh. Trước mặt Thịnh là ngôi nhà nguyện nhỏ bé, lụp sụp. Chính giữa sân nhà thờ là hang đá Đức Mẹ nhỏ xíu đầy rong rêu bụi bặm, được làm bằng san hô. Tượng Đức Mẹ đứng trên chỗ cao nhất của hang đá. Mắt Mẹ nhìn bao quát tất cả khuôn viên nhà thờ. Mặt Mẹ có vẻ u buồn lắm. Tất cả khuôn viên nhà thờ lại được bao phủ bằng một đồi thông liễu, gốc to gốc nhỏ đứng xiêu vẹo theo triền đồi. Tất cả gợi lên một cảnh điêu tàn, đúng như tình trạng xứ đạo hiện giờ. Bởi sau năm 1975, mọi người đã tứ tán khắp nơi, những người còn lại chỉ vỏn vẹn hơn hai trăm gia đình. Tuy nhiên, họ giữ đạo “nửa nạc nửa mỡ”, trộn lẫn đức tin Công giáo với đủ thứ mê tín dị đoạn. Người ngoại cúng họ cũng cúng, coi ngày coi giờ họ cũng coi, kiêng cữ đủ thứ hết. Họ tin Chúa ít mà tin ma quỷ thần thánh nhiều hơn. Đó là nỗi đau của xứ đạo, nỗi đau của cha già. Chính điều ấy làm cho thánh giá, gánh nặng mục vụ của cha thêm gai gốc và cay đắng. Chỉ có những người sống thân tình với cha như gia đình anh chị Thu - Lắm mới có thể hiểu được. 

Nhìn đồng hồ, anh Lắm đề nghị. 

- Cũng trưa rồi, gia đình tôi mời hai cậu về nhà chúng tôi ăn cơm. Đến chiều hai cậu đến đây dự lễ rồi về. 

- Ấy chết! Chúng em ngại lắm. Để chúng em ra quán cơm ăn cũng được. Chiều chúng em đến đây dự lễ. 

- Ngại gì! Cũng là dân nhà quê với nhau. Tôi biết hai em đi làm khổ cực lắm. Với lại tôi mến cái tính của hai em. 

Suy nghĩ một lúc, Thịnh quyết định. 

- Thôi được! Hôm nay, gia đình cho chúng em xin bữa cơm. 

- Hoan hô hai anh!... 

Trong nắng trưa oi ả, cả nhà xuôi dốc trở về nhà. Hôm nay, gia đình có thêm niềm vui. Hai người anh xa lạ kia đã trở thành thành viên của gia đình. Trong ngôi nhà nhỏ nằm giữa vườn điều heo hút, đã có thêm tiếng nói cười của hai con người mới. Bữa cơm tuy đạm bạc canh cá rau dưa nhưng đầy niềm vui và hạnh phúc. Cả nhà vui cười với nhau. Bên ngoài dù trời vẫn nắng nhưng không còn oi bức nữa. Phía đông trời đã bắt đầu kéo mây. Trời mát, âm u rồi mưa lúc nào không hay. Cả nhà nhìn thấy mưa rơi càng hạnh phúc. Rồi đây, cát trắng sẽ cho một mùa lúa bội thu. Mọi năm, giờ này dễ gì có mưa nhưng năm nay lại khác. Mưa sớm thì mùa gặt càng sớm. Mọi người sẽ không thấp thỏm lo đong gạo nữa. Mưa thật là sướng! Khoai mì, khoai chuối, cà dưa gì cũng sẽ đơm hoa kết trái. Thật là một năm đầy hồng ân. 

- Ăn cơm đi hai em! Năm nay không sợ đói nữa đâu... 

Lời mời chân thành của anh thật dễ thương hết sức. Nó như lời ba mẹ già ở quê gọi con về ăn cơm mỗi sớm mỗi chiều. Nó đang làm sống dậy trong lòng hai anh em một nỗi nhớ nhà, nhớ cha nhớ mẹ khôn tả. Và như không có chỗ chứa hết, nó trào ra khóe mắt, làm ướt một bên má của hai anh em. Lòng hai anh em thấy ấm áp vô cùng, bởi ở nơi đất khách quê người này vẫn luôn có những tấm lòng rộng mở đón tiếp những người con của Chúa. Đấy chính là nét đẹp của “vùng cát trắng”, vùng đất tràn đầy sức sống, vẫn đang chuyển mình từng ngày từng giờ chờ những cơn mưa mát đất mát trời, mát cả lòng con người. 


GIẢI VIẾT VĂN ĐƯỜNG TRƯỜNG 2018
BẢN TIN 04 



Kính chào quý Bạn đọc và quý Tác giả, 

Từ năm 2012, Giải Viết Văn Đường Trường được tổ chức, nằm trong hành trình chào mừng Năm thánh Kỷ niệm 400 năm loan báo Tin mừng trên phần đất Giáo phận Qui Nhơn. Giải thưởng được trao từng năm và kéo dài trong sáu năm, năm nay là lần thứ VI cũng là năm cuối. Theo dự phóng ban đầu, năm cuối sẽ là năm tổng kết lại toàn bộ sáu lần thi, vì vậy Ban Tổ chức cần tập trung vận động để cuộc thi được sôi nổi và rộng khắp hơn, qua đó mà việc tổng kết có được nét đa dạng và phong phú, đạt được mục tiêu phát hiệnkết nối các cây bút trẻ Công giáo. 

Thế nhưng ơn Chúa đã dẫn dắt công việc chuyển tiếp theo một hướng mới. Cuối năm 2016, chúng tôi thấy cần phải đầu tư cho một việc khác quan trọng và lâu dài hơn. Đa số các tác giả đã tham gia cuộc thi bày tỏ nguyện vọng về một “sân chơi văn chương” có khả năng tiếp nối bầu khí sôi nổi và thân tình của cuộc thi. Để tiếp tục phục vụ và tạo cảm hứng sáng tác cho những người trẻ thích văn chương, chúng tôi đã chọn đáp án thực hiện những tuyển tập văn thơ định kỳ. Thế là tờ Mục Đồng đã ra đời. Công việc không đơn giản, đang khi không một ai trong Ban Tổ chức có kinh nghiệm về chuyện này. Chúng tôi đã cố gắng tối đa để các tuyển tập ngày càng tươm tất hơn. Tuy nhiên không chỉ có vấn đề nội dung và hình thức trình bày, mỗi lần thực hiện chúng tôi lại gặp những trở ngại mới cần giải quyết… 


Giờ đây, chuyện “đất dụng võ” cho các tác giả trẻ đã tương đối ổn: Ngoài blog vanthoconggiao.net, nay đã có Tuyển tập Mục Đồng và blog tapsanmucdong.net. Hồi kết của Giải Viết Văn Đường Trường sôi nổi hay bình lặng không nằm trong tầm tay Ban Tổ chức nhưng tùy nơi sự hưởng ứng của các tác giả và sự hỗ trợ của các trang truyền thông Công giáo… 

Dù sao, tới thời điểm này, hồ sơ dự thi năm nay đã nhận được 57 bài… Một bước khởi đầu đáng kể, hy vọng trong giai đoạn “nước rút” sẽ nhận được gấp đôi, gấp ba số lượng ấy. 

Xin mời quý bạn đọc cùng thưởng thức đợt truyện thứ tư đã qua vòng sơ loại của Giải Viết Văn Đường Trường 2018, gồm truyện dưới đây và tám truyện khác sẽ được đăng dần trên blog Văn Thơ Công Giáo và Mục Đồng trực tuyến. 

Như đã thông báo trong bản tin trước, Ban Tổ chức quyết định gia hạn nhận bài tới hết ngày 15-4-2018 để quý tác giả có thêm thời gian hoàn thành tác phẩm dự thi một cách tốt nhất. Mong quý tác giả tiếp tục suy tư và gởi thật nhiều truyện dự thi (không hạn chế số lượng). 

Mến chúc mọi người một Năm mới dồi dào thánh ân, sức khỏe và niềm vui của ơn cứu rỗi. 

Quy Nhơn, ngày 26-2-2018 

Lm. Trăng Thập Tự 

Trưởng ban Tổ chức


Quý độc giả có thể đọc những truyện đã qua vòng sơ loại tại: http://www.tapsanmucdong.net/


Sợ hãi, đó là chuyện bình thường!

Không sợ gì cả, cái đó không tồn tại!

Chúng ta sợ chuyển trường, sợ mất đi người mình thương mến, sợ bị lừa dối, sợ làm không tốt.

Cái đó giống như một hòn đá cứng nằm trong bụng và làm cho đau đớn. Nó ngăn trở ta trò chuyện và thậm chí di chuyển! Thỉnh thoảng, chúng ta có lý để sợ: khi ba chạy xe quá nhanh, chẳng hạn. Lúc đó, cần phải nói với ba rằng chúng ta sợ!

Nhưng thường xuyên nhất, nỗi sợ hãi hiện diện ở đó và không có gì có thể đuổi nó đi được.

Phải làm gì đây?


Lời của Chúa Giêsu (theo Mt 8 , 23-28)

Đức Giêsu lên một chiếc thuyền. Mệt mỏi, Ngài ngủ thiếp đi. Đột nhiên cơn bão lớn nổi lên. Các bạn của Chúa Giêsu khiếp sợ. Họ kêu lớn : « Hãy cứu chúng tôi với, chúng tôi chết mất ! »

Lúc ấy Chúa Giêsu tỉnh dậy và nói với họ: « Tại sao các con lại sợ ? » Sau đó Ngài ngăm đe gió và biển. Và gió yên biển lặng. Thật là kinh ngạc ! Giêsu này là ai mà làm cho gió biển phải yên lặng ?

Góc cầu nguyện


Khi chúng ta sợ và khi chúng ta run, Chúa Giêsu đến giúp chúng ta.

Cùng với Chúa Giêsu, chúng ta lấy lại can đảm, Ngài có thể làm cho chúng ta trở nên mạnh mẽ.

Ngài có thể trấn an chúng ta.

Ngài nghe thấy tiếng gọi của chúng ta.

Ngài không bao giờ để chúng ta vấp ngã.

« Lạy Chúa Giêsu, con sợ! Xin mau đến giúp con, xin ban cho con sự can đảm!”

Lời khuyên sống


Để không còn sợ….

là người kém cỏi: mỗi người là duy nhất, không thể so sánh được, nhiều phẩm chất khác nhau. Từ từ, chúng ta khám phá ra chúng, chúng ta sẽ nhận thấy mình như chúng ta thật sự là. Và chúng ta sẽ cảm thấy thoải mái!

nhìn thấy người thân yêu của chúng ta qua đời: nỗi sợ này, nó rất khó để biến mất! Cần phải nói điều đó ra với một người nào đó có thể trấn an và khích lệ.

người nào đó làm hại bạn: điều đó xảy đến và nhất là không được ru rú ở xó nhà mà không nói gì cả.
Nói những nỗi sợ của mình với một người nào đó mà minh tin tưởng, thường cho phép cất bỏ chúng.

Dành cho các bậc cha mẹ…


Những nỗi sợ của con cái chúng ta thường là sự phản ảnh lại từ những nỗi lo sợ của chính chúng ta. Dù không mong muốn điều đó, nhưng chúng ta chuyển sang con cái chúng ta những nỗi lo lắng và những bối rối chúng ta: lo sợ tương lai, sợ thất nghiệp, sợ cô đơn, đôi khi cũng sợ những tránh nhiệm của chúng ta. Con cái của chúng ta cảm thấy rõ những nỗi sợ đó. Và chúng cũng chịu đựng những nỗi lo sợ đó. Do đó thật hay khi thường xuyên xem xét lại những nỗi lo lắng của chúng ta và học cách không phải để chế ngự nó nhưng là để giải thoát mình khỏi nỗi lo sợ đó. Đôi lúc điều đó cần đến sự trợ giúp của một người thứ ba, bạn bè hoặc bác sĩ tâm lý trị liệu.

Nhưng chế ngự các nỗi sợ của mình, đó cũng là hoàn toàn tin tưởng phó thác vào Đấng đã hứa đồng hành cùng mỗi người và mang lại cho mỗi người sự trợ giúp của Ngài trong mọi hoàn cảnh. Trong Tin Mừng về cơn bão lắng dịu, Chúa Giêsu trấn an các môn đệ. “Tại sao các con sợ?” Những lời này cũng được nói với chúng ta. Và chúng cần được lắng nghe lại luôn.


Nt. Kim Ngân chuyển ngữ