Mã số: 18-013
1.
Chiều nay, trời Nha Trang tự nhiên mưa nhẹ nhàng, không có gió cũng chẳng có sấm chớp. Tiếng mưa cứ rỉ rả không ngớt ngoài sân. Ở trong phòng, Hồng ngồi trên giường nhìn ra cửa sổ. Căn phòng tối om. Hồng cũng chẳng bật đèn. Bóng tối bao trùm lấy dáng người nhỏ bé đang co lại. Hồng nghiêng người tựa đầu vào vách, mái tóc đen xõa xuống bờ vai. Hai tay nâng tràng chuỗi Mân côi, Hồng lần về những ký ức trong nước mắt. Mỗi hạt là một nỗi lòng ùa về. Hồng nghĩ về cha mẹ già đang ở quê, nghĩ đến những chị em trong dòng, nghĩ đến những người dân trong giáo xứ và nghĩ đến những đôi mắt ngây thơ của các bé nhà trẻ.

Chắc hẳn giờ này, cha mẹ già đang buồn vì Hồng nhiều lắm. Hôm gọi điện về nhà báo tin ra khỏi dòng, Hồng đã làm cho mẹ ngất xỉu, còn cha lặng yên chẳng nói tiếng nào. Ở đầu dây bên kia, Hồng chỉ nghe được tiếng khóc của con út và tiếng mưa rơi lộp bộp. Tim Hồng như rớt ra ngoài. Hồng không thể hình dung hết cú sốc mà mình đã gây ra cho mẹ cũng như cả gia đình. Hồng chỉ biết chắc chắn rằng điều ấy sẽ xảy ra. Cho nên, lòng Hồng không khỏi đắng cay chua xót. Hồng biết cha độ lượng hay chiều theo quyết định của con gái; còn mẹ luôn ước ao, hy vọng rất nhiều vào ngày con gái khấn trọn. Thế mà nay, mọi sự sụp đổ hết. Mẹ Hồng không ngã gục mới là chuyện lạ. Hồng đặt ống nghe xuống, tâm hồn như lạc ở cõi nào vô định, tiếng khóc nấc lên tự sâu thẳm trong cõi lòng nát tan.


Thấy Hồng quyết định trong đau đớn, chị em trong dòng cũng rụng rời. Cái phần chi thể đang yên đang lành bị cắt khỏi thân thể sao lại không đau. Ngày Hồng thông báo quyết định ra đi, ai cũng ngỡ ngàng. Cái con bé sao lại bỏ chúng mình ra đi nhỉ? Nó có bồ hay sao? Không đâu! Nó ghét chúng mình ư? Có thể lắm chứ! Nhưng vì chuyện gì mới được chứ? Chẳng ai biết. Với lại, nó dễ thương thế, ai nỡ ghét nó. Chắc nó cũng chẳng ghét ai. Hay nó… hay nó… Bao nhiêu câu hỏi chị em tự đặt ra cho mình để suy xét xem mình có lỗi gì trong chuyện này chăng. Hồng biết lòng mọi người đang bối rối. Cho nên hôm ra đi, Hồng đã cho mọi người biết chẳng ai có lỗi trong chuyện của Hồng. Đây là quyết định riêng của Hồng thôi! Hồng ra đi không có nghĩa là nghỉ tu, là vĩnh biệt mọi người để đi tìm tổ ấm cho riêng mình. Hồng ra đi, vì cần có một thời gian suy nghĩ chín chắn hơn ơn gọi của mình. Nếu mọi người tin tưởng Hồng xin đừng buồn, đừng khóc nhưng xin cầu nguyện cho Hồng. Hồng an ủi mọi người nhưng chính cô lại là người khóc trước. Hồng xin ôm mọi người lần cuối, từng người, từng người một. Cảm xúc chia ly bắt đầu trào lên mạnh mẽ trong lòng mọi người. Hết người này đến người khác ôm Hồng bằng đôi tay siết chặt và đôi mắt đỏ hoe hờn dỗi.
Tin Hồng ra khỏi dòng cuối cùng cũng đến tai người dân giáo xứ quê nhà. Cha mẹ Hồng chẳng biết nói gì. Hai người càng im lặng, người ta càng xì xào bàn tán. Có người thấy tội nghiệp cho con bé hiền lành, dễ mến. Chắc Chúa không chọn nó. Có người nghi nó có bồ rồi, ra sớm sớm đi cho bớt tội, ở mãi trong đó rồi đến ngày nổ bom thì chết! Có người chì chiết đủ thứ. Tu tiết gì cái thứ ấy, bẽ cái mặt chưa, cho khỏi vênh váo với người khác! Nghèo tiền đan thúng, túng tiền đi tu mà! Đi tu để kiếm miếng ăn thôi!... Cha mẹ Hồng nghe biết tất cả nhưng chỉ im lặng. Lưng ông bà đã còng vì bao năm tháng làm lụng vất vả nuôi con, nay lại càng còng thêm. Thánh giá Chúa trao cho hai ông bà lúc tuổi đà xế bóng thật quá sức chịu đựng. Hai ông bà chẳng biết bấu víu vào đâu ngoài Chúa và Mẹ Maria qua từng thánh lễ, từng giờ kinh. Ông bà chẳng thể hiểu được quyết định của con gái. Tự nó quyết định đi tu rồi tự nó quyết định về. Có điều, nó không về nhà với ông bà. Cũng vì thế mà ông bà càng đau xót hơn. Ông bà cứ quỳ hàng giờ trước nhà chầu để tìm câu trả lời và chút thanh thản sau thánh lễ mỗi ngày.
Có tiếng trẻ con khóc đâu đó vọng lại qua cửa sổ, Hồng hướng suy nghĩ của mình về các con trong nhà trẻ. Hằng ngày cha mẹ chúng đem đến gửi cho Hồng chăm sóc. Hồng nhớ từng khuôn mặt ngây thơ, nhớ từng nụ cười dễ mến và từng đôi mắt nhìn Hồng như trông chờ mẹ. Hồng chăm chút từng đứa, xem chúng như con. Mỗi lúc Hồng ôm chúng vào lòng, cảm xúc mẹ con trào dâng trong lòng, làm Hồng nhớ đến cha mẹ ở quê đang heo hút chờ mình. Hồng nhớ hồi còn nhỏ được mẹ bồng cha bế. Cái cảm xúc ấy vẫn chưa bao giờ rời xa. Tuy nhiên, đấy không phải là lý do để Hồng phải ra khỏi dòng. Ngược lại, nó trở thành lý tưởng để Hồng vẫn giữ nguyên lời khấn. Hồng không muốn gỡ bỏ lời kết ước của mình với Chúa Giêsu, vị hôn phu không thể thay thế, bởi vì Hồng đang hạnh phúc với cuộc sống hiện tại. Đó là ngày ngày, Hồng được chăm chút các em thay cho cha mẹ chúng.
Càng về khuya trời càng mưa nặng hạt, không khí lạnh len lỏi vào căn phòng qua khung cửa sổ. Hồng cất tràng hạt, nằm xuống, kéo chăn đắp lên người rồi nhắm mắt lại. Hồng từ từ đi vào giấc ngủ cùng với ánh mắt thân thương và nụ cười tươi vui của các con.
2.
Trong giấc ngủ, Hồng thấy có một cây mai rất đẹp, cành lá xum xuê, đang được trồng trong chậu sành quý hiếm. Lại có đôi bàn tay đang cắt tỉa từng cành cây ngọn lá. Chỉ trong chốc lát, cây mai đã thành trơ trụi. Nó chỉ còn lại vài cái chồi non và nụ hoa lú nhú. Đôi bàn tay lại xới đất bón phân, tưới nước, chăm sóc cây mai kỹ lưỡng. Thế là hoa từ từ nở, chồi non từ từ đâm lộc. Đôi bàn tay tiếp tục cắt tỉa cây mai lần nữa để nó trở thành tuyệt tác nghệ thuật tô điểm cho ngày xuân. Thế nhưng có một người ngắm nhìn cây mai rồi buồn rầu bỏ đi. Nỗi buồn tỏa ra từ trong ý thức mất tự do. Cây mai đẹp thật nhưng không theo ý muốn của nó. Nó đẹp giả tạo không tự nhiên chút nào. Người nó đầy những vết sẹo sau những lần cắt tỉa. Thân nó không thể cao lên theo ý nó muốn. Cành nó không thể vươn ra tự do. Thế thì nó nên vui hay buồn? Mặc kệ! Đôi bàn tay ấy vẫn cứ cắt tỉa mỗi khi nó cảm thấy cần. Cắt… cắt… cắt…

Hồng không thể tròn giấc mỗi khi đêm về. Kể từ ngày khấn trọn, Hồng cứ nghĩ về hình ảnh ấy. Lúc nào, nó cũng hiển hiện trong tâm trí của Hồng. Hồng cần thời gian và không gian để suy nghĩ nhiều hơn. Thế là Hồng quyết định ra đi. Đêm nay, nằm một mình trong căn phòng này, Hồng cũng không tròn giấc được, vì bao suy nghĩ nhọc nhằn trong trí và hình ảnh cây mai bị cắt tỉa theo ý muốn của người khác. Hồng mở mắt ra mà hình ảnh cây mai vẫn còn ngay trước mặt. Hồng nhìn lên trần nhà một lúc rồi nhắm mắt lại. Hai dòng nước mắt chảy dài trên má. Hồng lầm thầm: “Lạy Cha chúng con ở trên trời…”


Theo lời kinh, Hồng chìm dần vào giấc ngủ và hình ảnh cây mai lại xuất hiện. Tuy nhiên, nó đã được đem ra trồng trong một khu vườn rộng lớn đầy cỏ dại và cây cối. Nó sung sướng đâm chồi nảy lộc và vươn mình lên cao. Nó đón lấy ánh nắng, ngọn gió và sương mai rơi xuống mỗi ngày. Nó cũng gồng mình chịu nắng gắt mùa hè và gió lạnh mùa đông. Thân nó lành lặn, cành nó cứng cáp nhưng đen ám và xù xì. Cũng có một đôi bàn tay chăm sóc cây mai. Lạ chưa, đó là đôi bàn tay của Hồng. Hồng tự chăm sóc, cắt tỉa, xới đất, bón phân, tưới nước cho cây mai của mình. Không gò bó, không kiểu cách nhưng Hồng cũng tạo được cho mình một dáng mai ưng ý. Thuận theo dáng tự nhiên của chính cây mai, Hồng cho nó một dáng vẻ đằm thắm ít có cây nào khác sánh bằng. Một con chim vành khuyên nhỏ xíu đang hót trên cành mai. Gặp thấy Hồng, nó lao vút lên trời xanh đầy nắng và mất hút. Trong không gian chỉ còn lại tiếng chim chích choa chích choắc. Hồng đứng yên hạnh phúc nhìn cây mai đang mùa trổ hoa vàng ươm trong trời xuân xanh mát.

Trời đang sáng dần sáng dần. Có tiếng nô đùa của trẻ con ngoài sân. Hồng mỉm cười tỉnh giấc. Kể từ ngày định ra khỏi dòng đến giờ, chưa có ngày nào Hồng tỉnh dậy với vẻ mặt tươi vui như hôm nay. Hồng ngồi dậy cảm ơn Chúa, lòng trào dâng những cảm xúc vui mừng khôn tả. Giờ đây, lúc này và trong không gian này, Hồng cảm thấy “đời tu” thật hạnh phúc.

Bước xuống khỏi giường, Hồng bắt đầu một ngày mới an bình trong Chúa.
Trời xuân mỗi lúc một tươi vui trên từng khuôn mặt trẻ thơ.















 

Mã số: 18-009

Tất cả các dòng sông đều chảy
(hay truyện kể về thầy Mười)

 

- Có chuyện gì mà mọi người xầm xì bàn tán, mặt ai cũng buồn thiu thế kia?

- Ông đi lâu vừa về không biết đấy thôi. Lần này thầy Mười nghỉ thật ông ạ!

- Nghỉ gì cơ?

- Nghỉ hết, cả dạy giáo lý lẫn văn hóa.

- Dào ôi, tưởng gì, các ông cứ làm quá. Thầy Mười nghỉ thì có thầy Mười Một, thầy Mười Hai thay. Làm như cái xứ này không có người ấy…

- Ông im ngay cái mồm! Ông là đồ ăn cháo đá bát, ăn nói hỗn xược. Thế không có thầy Mười, ông sao biết được cái mặt chữ mà phô-tô tài liệu, thằng con ông có soạn được mấy cái hợp đồng xây dựng béo bở để làm vương làm tướng bên Angola hay là cũng mù chữ như dân bên đó?

- Ông Bằng, ăn nói cho cẩn thận, tôi nện cho một trận giờ! Tôi ăn cháo đá bát hồi nào? Tôi nói đùa tí thôi. Ông không thấy mỗi lần đi Angola về, có khi tôi còn thăm thầy Mười trước bố vợ tôi ấy. Vấn đề là Cụ đã có tuổi rồi, lớp trẻ cũng phải kế thừa chứ, cứ bắt Cụ làm mãi không thấy xấu hổ à. Thế lần này là chắc chắn nghỉ rồi đấy, đã có ai kế tục sự nghiệp chưa mà Cụ nghỉ?

- Ông vớ vẩn vừa thôi, chuyện này đâu đùa được. Giờ mọi việc tạm thời phải tách làm hai, phần giáo lý đức tin cho bọn nhỏ ông Tuấn làm, phần giáo lý hôn nhân là bà Thu. Còn dạy kèm văn hóa thì phó cho nhà trường thôi. Có ai dạy văn hóa miễn phí bao giờ đâu…

- Ầy dà… Nhưng ông Tuấn, bà Thu tuổi cũng cận kề thầy Mười rồi, chả biết được mấy năm lại thay. Cụ có bao thế hệ học sinh giỏi, sao giờ không có “truyền nhân” thế này…

- Ôi dào, học sinh giỏi của “nhà giáo nhân dân” thì kể mấy ngày không hết. Có ba “học trò yêu” thì cậu Lê đã mất năm ngoái…

- Hả, sao cơ? Lê mất rồi à?

- Ừ, một tai nạn hy hữu. Tôi kể cho ông nghe sau…

- Lê là người gần gũi thầy nhất, chắc thầy buồn lắm…

- Không chỉ buồn thôi, thầy bị sốc, ốm gần hai tháng, già hẳn đi, ông về gặp thầy lần này chắc không khỏi ngỡ ngàng đâu. Mất đi “cánh tay nối dài” ai không đau, “người đầu bạc tiễn người đầu xanh” sao không xót. Từ lúc Lê mất tới giờ, việc vận chuyển sách vở, phô-tô tài liệu không có người giúp nên gặp nhiều khó khăn, phải thuê hết, nguồn kinh phí trông chờ vào quỹ khuyến học của Xứ, tờ giấy tập hát trước lễ cũng đã bỏ hẳn rồi. Ông xem đợt này về tài trợ cho Xứ cái máy phô-tô và ít mực nhé! Mà nói thế thôi, bảo ai vận hành, bảo dưỡng máy không công đây?

- Thế còn Thông, Tuệ?

- Thông, Tuệ đang ở Tây Âu, nghe nói học tiến sĩ, đường công danh sự nghiệp còn thênh thang lắm, đâu có “cáo quan về ở ẩn” được, đúng không? Còn ông thì đi Angola miết. Ông cũng biết hai chữ “hy sinh” phát âm thì dễ, viết cũng thoải mái, là “i ngắn” hay “y dài” đều được, nhưng thực hiện nó khó đến đâu…

- Ông đừng cạnh khóe tôi, ông ở nhà sao không kế nghiệp Cụ đi? Nói chứ cũng đáng lo thật, nhưng biết làm sao giờ. Thôi tôi về thẳng nhà Cụ, hỏi thăm xem sao.

Ông Việt chuyển hướng sang con đường lớn mới mở, về thăm người thầy cũ đáng kính của mình, người đã thay đổi cuộc đời ông, lòng không khỏi xúc động, những kỷ niệm về người thầy “có một không hai” lại ùa về.

***

Ở cái Xứ này người ta không có coi trọng cái chữ. Con trai cày cuốc, kéo xe bò chở cát sỏi, hàng hóa… Con gái hết ngày mùa làm bánh, bán rau ở chợ, mười nhăm mười bảy tuổi vớ được anh chồng có con bò, con trâu làm vốn là “xong”. Cái việc học giáo lý cũng đơn sơ như cách người ta đi đạo vậy, ê a học thuộc, tới ngày thi cũng khảo đọc luôn, chỉ cần trí nhớ tốt là “Ưu”, khỏi phải học chữ làm gì cho khổ. Nghĩ đến cảnh lặn lội sang bên kia sông để kiếm lấy con chữ đã ngán, mà cũng chẳng để làm gì. Chuyện tính toán làm ăn quá đơn giản, cứ cái bánh một đồng thì bốn cái bốn đồng, thích thì bớt cho tí thành năm cái bốn đồng chứ ai ngồi mà tính “bán sỉ thành không phẩy tám đồng một cái, vị chi mười cái được lợi hai đồng, hai mươi cái lợi bốn đồng” bao giờ. Vậy nên cái Xứ này bao năm không có thi Giáo lý Hạt, đi xa đã đành, trên ấy người ta lại khảo viết, thi sao được. Nguồn giáo lý viên của Xứ cũng rất đặc biệt, ấy là mấy nhà kha khá, tính cho con “đi nhà thầy” cố gắng cho nó qua sông học lấy cái chữ, nhưng không có phong trào nên chẳng đâu vào đâu. Cũng có vài chú được gởi cho Cha Quản hạt nhưng thi Chủng viện không đỗ, loanh quanh lại về nhà dạy giáo lý và chỉ bảo cho bạn bè đôi ba chữ, để khi rảnh rang ngồi bán bánh, kéo xe còn đọc mấy bài báo trên giấy gói hàng… cho vui. Xứ do Cha Quản hạt kiêm nhiệm, mỗi Chúa nhật Cha về làm cho một lễ, lâu lâu cho giải tội một lượt là xong, nhà ai có kẻ liệt thì thuê xe thuê đò chở Cha về xức dầu, thế thôi. Cha quá bận, Xứ lại xa xôi cách trở nên ngài cũng lực bất tòng tâm.

Vào một ngày đẹp trời, Xứ đón một chàng thanh niên… tóc hoa râm ghé thăm. Là thầy Mười, một thầy giáo có cái “lý lịch trắng”. Nghe đâu là thương binh trong chiến trường miền Nam cuối thập niên Sáu Mươi trong một trận đánh lớn, khi ra Bắc chữa trị thì chẳng còn nhớ gì ngoài… mấy con chữ, coi như tứ cố vô thân, được Nhà nước cho đi học làm thầy, lấy luôn cái tên “Mười” cho dễ nhớ. Thầy dạy giỏi lắm nhưng lại “tỷ lệ nghịch” với sức khỏe, ngoài bốn mươi thì vết thương tái phát nhiều lần, không đủ sức đứng lớp, phải nghỉ hưu non. Có người mách cho cụ Kính bên kia sông có bài thuốc Nam hay lắm nên thầy sang xem thử, ai dè thầy nói chuyện với cụ rất hợp gu, cảm mến luôn, bệnh tình cũng thuyên giảm nên ở lại dạy chữ cho mấy đứa con cháu cụ, vừa trả công lại đỡ “ngứa nghề”. Nhà cụ Kính rộng mênh mông, cò bay mỏi cánh rơi chết còn chưa hết đất. Cụ cho “ông giáo” hẳn hai sào đất cuối vườn, dựng cái nhà tranh nho nhỏ, bảo “tự làm mà ăn, lao động chân tay nhiều khắc hết bệnh”. Thầy Mười ở với cụ Kính mấy năm, rảnh rang chẳng có sách gì đọc ngoài Sách Kinh và Giáo lý Công Giáo, cảm cái ơn cứu mạng của cụ Kính, theo Đạo luôn. Cụ Kính cũng là người làm phép rửa tội cho thầy, rồi sau đó ít lâu, thầy trở thành trưởng ban Giáo lý viên của Xứ, còn ai xứng đáng hơn…

Một người nặng lòng với con chữ như thầy Mười, lẽ dĩ nhiên không để cho Xứ cứ mãi không có người đi thi Giáo lý Hạt được. Thầy quyết tâm xóa mù chữ cho cái Xứ này. Nhưng nói thì dễ chứ làm chẳng dễ tí nào. Địa bàn quá rộng, người dân thì lam lũ, mỗi tuần có hai tối học Giáo lý mà đi chưa đủ, đến lớp còn ngủ gà ngủ gật, nói chi chuyện học chữ. Cũng phải thôi, đi xe bò kéo, chăn trâu hay làm bánh, bán rau đều phải dậy từ sáng sớm, tối mà ngủ muộn thì sáng ra đâu có mở mắt nổi. Thầy đến từng nhà động viên mà chẳng mấy ai hưởng ứng. Con nít mười tuổi trở lên đã lo kiếm ăn, dưới mười tuổi thì sợ đi xa, loanh quanh mãi cũng chỉ gom được một lớp, chủ yếu là mấy đứa nhỏ gần nhà. Ông Việt, ông Bằng là trường hợp đặc biệt, ngấp nghé tuổi hai mươi, sắp lấy vợ đến nơi nhưng nhà xa, được đặc trách đưa các em đến lớp, sẵn tiện “học ké” luôn. Chuyện dạy học của thầy Mười “li kì” phải biết, nhưng ông Việt nhớ nhất hai chuyện.

Một là chuyện đi thi Giáo lý Hạt lần đầu, khoảng những năm cuối thập niên Tám Mươi thế kỷ trước. Thầy Mười phải bỏ tiền lương thương binh của mình ra thuê đò, thuê xe cho ba đứa cũng chẳng phải giỏi nhất đi thi, tại vì mấy đứa giỏi hơn ba mẹ nó bắt ở nhà. Gọi là “thuê xe” cho oai, thực ra là xin đi nhờ xe tải, bốn thầy trò ngồi sau rơ-mooc, đội nón lá sùm sụp để tránh nắng. Khi đi thì không sao, khi về chẳng may gặp tai nạn, hai đứa bị thương khá nặng, thầy phải bỏ hết mọi công mọi việc đi chăm, tiền tiết kiệm mấy năm cũng bay theo hết. Mà thực ra, chưa bị ba mẹ tụi nó đánh cho là may, và cũng “may” là bị tai nạn xe, chứ đắm đò thì thầy thành “tội nhân thiên cổ” rồi. Mấy ông bà không cho con đi thi có vẻ đắc ý, dèm pha đủ điều. Tưởng chừng chuyện đi thi Giáo lý Hạt sau này coi như đã khép lại hoàn toàn thì bất ngờ cả ba đứa đều “Ưu”, còn có một đứa Giải Nhất nữa mới ghê, bằng đỏ mang về treo sáng choang cả nhà, Cha quản Hạt về làm lễ khen mãi. Lúc đó mấy nhà không cho con đi thi lại ngồi tiếc, còn bị người trong Xứ chửi cho ngập đầu, khổ công thầy phải dàn hòa. Chuyến này thầy tán gia bại sản nhưng đổi lại được niềm tin yêu tuyệt đối của mọi người, và phần thưởng trong mơ là một bộ Kinh Thánh toàn tập.

Chuyện thứ hai là huyện phổ biến công tác xóa mù chữ, thầy vui lắm, lên thị trấn lấy bằng hết các sách vở, thuê xe thuê đò chở về rồi cùng bé Thanh - cháu cụ Kính - hì hục phân loại, gom thành từng bộ, giao cho nó nhiệm vụ đạp xe đưa đến từng nhà. Thầy tính ít nữa sẽ cùng Bằng, Việt chia nhau đến tận nơi hướng dẫn mọi người học chữ và làm bài. Nào ngờ, một bữa thầy đi qua chợ, có bà Tập chạy theo, dúi vào tay thầy một gói bánh rán to, nóng bỏng tay, bảo cảm ơn thầy dạy dỗ cho mấy đứa con mà không lấy một xu. Thầy chối mãi không được phải nhận. Về nhà mở ra thấy tờ giấy gói bánh quen quen, ra là… sách xóa mù chữ. Thầy giận lắm, sang tận nhà bà Tập hỏi cho ra nhẽ. Là thế này, con bé Thanh đến xóm ấy chỉ gặp mỗi ông Tập, còn các nhà khác đang đi ăn cưới nên nó gởi hết cho ổng, nhờ tới chiều chuyển hộ. Ông Tập vứt tạm vào góc nhà, gần ngay chỗ để giấy gói bánh của bà Tập rồi quên khuấy mất, bà Tập chẳng biết chữ, không biết là thứ sách vở gì,“cứ thế dùng”. Khi thầy Mười đến thì mấy bộ sách vở đã bị dùng gói bánh gần hết, thầy nổi khùng với ông Tập, nếu mọi người không can ngăn kịp thời, biết đâu đã có đổ máu chứ chẳng chơi.

Vậy đó, chuyện dạy Giáo lý, dạy chữ ở cái Xứ lạ đời này thật lắm gian nan. Qua bao năm vẫn cứ trông cậy hết vào một cụ già đã qua tuổi “cổ lai hy” say sưa với con chữ quên cả hạnh phúc riêng, mấy lần xin nghỉ chẳng được. Ta nói, “có không giữ, mất đừng tìm” chẳng sai, giờ Cụ nghỉ là biết tay nhau ngay. Nhân tài đầy ra đấy, nhưng hai chữ “hy sinh” sao mà khó tìm vậy trời!

***

- Dạ, con chào thầy ạ…

Không thấy trả lời. Ông Việt tiến vào nhà, nơi thầy Mười đang lim dim mắt, gà gật như đang “phiêu” theo tiếng hát thiên thần hay những áng văn thơ lãng mạn nào đó trên chiếc phản gỗ đặt trước sân nhà. Đúng như những gì ông Bằng kể, thầy già hẳn đi, tóc bạc phơ, gương mặt hốc hác, da đã ải đi nhiều. Ông chào thêm lần nữa nhưng dường như Cụ không nghe thấy. Sợ thầy giật mình không dám chào to, ông lại vòng sang bên phải. Tới lúc đó thầy Mười mới bừng tỉnh, cười nhẹ:

- Việt à, về rồi hả con, đợt này đi lâu quá ha!

- Dạ cũng hơn ba năm ạ. Con xin lỗi đã quấy quả giấc ngủ của thầy…

- Ngủ gì đâu, đang ngồi nghĩ ngợi ấy mà. Là vì dạo này thầy nghễnh ngãng rồi, chỉ nghe được bằng tai bên phải năm phần thôi…

(Cụ vừa nói vừa nghiêng nghiêng đầu sang trái để trả lời ông Việt)

- Ôi, tai thầy tệ đến thế rồi cơ à. Để lần tới con bay, sẵn tiện đưa thầy lên Hà Nội đo thính lực rồi mua cho thầy cái máy trợ thính.

- Không cần đâu, tốn kém lắm, con có tiền để đó tặng cho Quỹ khuyến học của Xứ hoặc làm phần thưởng thi Giáo lý đi. Thầy già rồi, nghe càng ít càng tốt, chỉ nên nghe những cái cần nghe, haha…

- Thầy lại khôi hài rồi. Thầy biết con vẫn thường xuyên tặng học bổng cho con em trong Xứ mà. Con xin phép hỏi điều này, có phải tai thầy kém nên quyết định nghỉ hẳn không ạ!?

- À à, anh nghe chuyện đó rồi hả. Một phần thôi, thầy tự thấy cũng đến lúc phải nghỉ rồi.

- Con không an tâm, con thấy mọi người cũng lo lắng lắm ạ…

- Dào ôi, ông Mười nghỉ thì đã có ông Mười Một, ông Mười Hai lo, haha, chẳng phải ba năm trước thầy đã nói với anh thế còn gì…

- Thầy lại đùa… Chứ tụi con lo thật à. Ông Tuấn, bà Thu lo được phần giáo lý, còn phần dạy văn hóa…

- Không lo, không lo! Bữa trước Thông về, nó kể ông bạn đang giữ chức Trưởng phòng giáo dục huyện tiết lộ đã có dự án xây trường ở Xứ mình, sang năm khởi công, chừng hơn một năm là xong ấy mà. Thông cũng đang liên hệ xin tài trợ cho Thư viện và Phòng thí nghiệm của trường mới rồi. Đường sá giờ cũng thuận lợi, cầu đã bắc khỏi phải đi đò. Tuệ mới lập cho Xứ một Website, mọi thông tin đều được đưa lên đó, việc xin tài trợ cũng thuận tiện hơn. Còn nữa, Mẫn, em trai Tuệ vừa thi đỗ Chủng viện, chắc Đức Cha giữ lời hứa sẽ cắt cử linh mục về quản riêng Xứ mình. Chuyện đạo chuyện đời vậy là ổn cả. Thầy nghỉ lúc này là hợp lý. Tất cả dòng sông đều chảy con ạ, cứ yên tâm.

- Dạ, thế còn thầy ạ?

- Thầy ấy à, haha, nghỉ ngơi thưởng trà làm thơ, hưởng nốt những thú vui xa xỉ chưa từng nếm trải. Tiền ấy à? Có lương thương binh, giờ đường lớn mới mở qua nhà đấy, bán đi nửa đất gởi tiết kiệm chắc tiêu đến trăm tuổi cũng không hết, haha…

***

Ông Việt rời nhà thầy Mười lòng đầy phấn khởi. Ông đang đi trên con đường mới mở nối khu công nghiệp tương lai đến thị trấn nay mai sẽ được “nâng cấp” lên thị xã. Con đường được rải nhựa rộng thênh thang, mỗi bên đủ ba làn ô tô lưu thông, hai bên đường là hàng cây xanh mới trồng chừng vài năm đang bắt đầu trổ sinh lộc lá biếc xanh. Cuối con đường là cây cầu bắc qua sông, sơn còn chưa chút bong tróc, nơi ông vừa được taxi đưa đến tận cửa làng mà không phải đi đò như năm nào. Một trang sử mới của Xứ đang được lật ra trước mắt ông. Ông ngửa mặt lên trời hít sâu thật sâu với lòng tự hào vô bờ bến, thì bỗng đâu một luồng gió độc xộc vào mũi làm ông nghẹn thở. Tay bịt chặt miệng, ông trợn tròn mắt nhìn xuống lòng sông. Bao lời thầy Mười dạy đều đúng, duy lần này thầy “lỗi thời” mất rồi: Không phải mọi dòng sông đều chảy! Dòng sông quê ông nay đen ngòm, đặc quánh rác thải công nghiệp và dân sinh, không một bóng thuyền bè. Mới có mấy năm mà thay đổi quá nhanh, những gì được nghe kể qua điện thoại và những gì ông vừa nhìn thấy không thể diễn tả hết được. Hóa ra người ta xây cầu vì không một con đò nào có thể qua nổi dòng sông chết ấy. Nghe nói Sở Môi trường đã bao lần đến khảo sát lập biên bản nhưng rồi đâu lại vào đấy. Không phải dòng sông không chảy nữa, nhưng ai, ai mới là người khơi lại dòng chảy ấy? Thốt nhiên ông chột dạ khi nghĩ về những điều thầy Mười nói. Cụ “lạc quan tếu” thôi! Dự án xây trường chỉ mới trên giấy, chắc gì đã thành hiện thực. Hai cái cậu Thông, Tuệ đang ở tận trời Âu, nước xa đâu cứu được lửa gần. Chuyện Đức Cha hứa “một đổi một” cũng đâu có dễ. Nhà thờ xuống cấp, nhà xứ dột nát thế kia sao đón được linh mục về, còn cái cậu Mẫn cũng mới đỗ Chủng viện thôi, đường tu còn dài lắm. Chuyện cá nhân thầy Mười nữa. Già cả neo đơn, trước còn có học sinh qua lại, nay một thân một mình, trái gió trở trời biết cậy vào ai. Đã thế tai lại nghễnh ngãng, nhưng nếu có tiền mua máy trợ thính, chắc Cụ cũng chẳng mua mà để dành tặng Quỹ khuyến học. Còn cái mảnh đất kia vẫn là đất nhà cụ Kính, lại ở vị trí “đắc địa”, hai sào đất ấy đáng giá hơn cả héc-ta còn lại ấy chứ. Cụ Kính đã ngoài chín mươi, dù còn minh mẫn nhưng tuổi già như ngọn đèn trước gió, nói dại, cụ mà nằm xuống, ở cái thế thời “nhân tình bạc như vôi” này, chưa biết chừng bầy con cháu lại đẩy thầy Mười ra đường chứ chẳng chơi. Học trò “kiến giả nhất phận”, nhỡ Cụ bị đẩy ra đường liệu có ai đón về chăm? Như bản thân mình đây thôi, nhà không thiếu của, phòng chẳng có người nhưng cứ đi Angola miết thế này, cái bà chằn kia đời nào chịu rước Cụ về nhà! Vậy đó, cuộc đời thật nghiệt ngã, người khơi thông dòng nước lại chẳng có con sông nào cưu mang…

- A, cháu chào ông Việt ạ!

- Ông ơi, ông về lần này có phát học bổng cho chúng cháu không ạ!

- Ông ơi, Trung Thu này chắc ông có nhiều quà cho bọn cháu lắm?

Một nhóm học sinh áo trắng, quần xanh, khăn quàng đỏ vừa đạp xe qua cầu vây quanh, lao nha lao nhao làm đứt mạch suy nghĩ của ông Việt. Ông mỉm cười chào lại chúng, kéo khóa mở vali lấy gói “kẹo Tây” phân phát:

- Yên tâm yên tâm, đâu sẽ có đó. Tất cả các dòng sông đều chảy, haha…

Nhìn theo bóng lũ trẻ - lứa học sinh cuối cùng của thầy Mười - dần xa trên những chiếc xe đạp đa chủng loại, màu sắc. Tiếng chuyện trò lao xao của chúng còn vọng lại: “Kẹo ngon quá mày ạ”, “Ừ kẹo Tây mà, mềm và ngọt, tao để dành cho em gái, chắc nó thích lắm”, “Tao để dành cho bà nội, chắc bà chưa từng được ăn”, “Tao sẽ gắng học thật giỏi để đi nước ngoài bọn mày ạ”… Mắt ông Việt như “mở ra”. Đúng, lời thầy Mười vẫn mãi là lời chân thật. Lũ trẻ sẽ lớn lên, để khi trưởng thành lại mải miết đi tìm Miền Đất Hứa, rồi cầu mong mai ngày được hưởng an vui tuổi già. Tất cả các dòng sông đều chảy, nhưng mỗi thời một khác, chảy về đâu, mạnh hay yếu, nhanh hay chậm, trong lành hay ô nhiễm, điều đó hoàn toàn phụ thuộc việc khơi thông nó thế nào. Người khơi dòng không mong được báo đáp nhưng đơn giản chỉ là giúp sông được sạch trong khi về với biển và cũng là người tới “Biển Tình Yêu” trước, dang tay đón những dòng sông chảy về. Hiếm ai một đời tận hiến làm “cánh tay nối dài” của cha Đắc Lộ như thầy Mười, và cũng mấy ai làm được những việc lớn lao như ba học trò yêu của thầy. Nhưng mỗi người đều hoàn toàn có thể là “bé Thanh thứ hai”, là con thuyền, là mái chèo phụ giúp “thầy Mười Một, thầy Mười Hai…” tiếp tục khơi trong dòng chảy cuộc đời…

Mã số: 18-008

Chạy vội vào phòng, anh đóng sập cửa lại. Cô thư kí hốt hoảng chạy theo sau:

- Anh ơi, anh có gặp đối tác nữa không?

- Hẹn họ một tuần nữa giúp anh, anh hơi mệt một chút nghen.

Ngã người trên chiếc ghế làm việc, anh vẫn còn hồi hộp. Mới nãy, vâng vừa mới nãy thôi, anh gặp lại ông ta, bao nhiêu hồi ức trong anh lại ùa về… Những kí ức anh muốn chôn dấu thật chặt, giờ tràn về trong anh, chúng tràn về như cơn lũ đầu nguồn quê anh: mạnh mẽ, không gì ngăn được.

Sinh ra trong một gia đình giàu sụ, ba anh là giám đốc một công ty gỗ lớn nhất nhì vùng Tây Nguyên. Nơi vùng đất đại ngàn này thì không gì nhanh giàu bằng làm đồ gỗ. Anh sinh ra trong một gia đình như thế. Ba anh 35 tuổi mới có anh. Anh chính là đứa con thừa tự của ông.

Số mệnh ngay từ đầu đã mỉm cười với anh, nhưng không trọn vẹn. Giá như ba anh không phải là người mê tín dị đoan cách khó kiểm soát. Giá như lão thầy bói mù không tiên báo anh sẽ chết yểu, chết trước năm 20 tuổi. Nguy hiểm hơn, ai ở bên anh cũng sẽ rước họa vào thân. Lời tiên đoán ấy càng được củng cố khi lúc sinh anh, mẹ đã suýt chết vì sinh khó; còn ba anh vì quá vui mừng mà suýt lên cơn đau tim.

Từ đó, từ sau lời tiên đoán oan nghiệt ấy, ba ghẻ lạnh mẹ con anh. Tuổi thơ sung sướng nhưng đầy bất hạnh của anh cứ vậy trôi đi. Anh lớn lên trong sự sung túc của cải vật chất, lũ nhóc bảo anh sướng. Đúng! Anh sướng thật, anh muốn gì được nấy, muốn đồ chơi gì cũng có. Nhưng mỗi lần nhìn ba chúng cõng chúng trên vai, bồng chúng đi chơi rồi hôn chúng hồi lâu, trái tim nhỏ bé của anh bỗng thắt lại, nhói lên. Anh thèm ba.

Năm anh lên 8, một hôm ba kêu mẹ con anh tới, nói gì đó với mẹ. Mắt mẹ đỏ hoe, mẹ nhìn anh. Mẹ đang khóc. Sao mẹ lại khóc? Ba nói gì với mẹ mà mẹ khóc?

- Ba! Sao ba làm mẹ khóc?- Anh ngây ngô hỏi.

Dang tay ôm anh vào lòng, mẹ dắt anh đi.

Mẹ anh, một người Công giáo theo ba anh về làm dâu ở cái vùng đại ngàn này. Nghe mẹ kể ba mẹ có làm phép trong nhà thờ hẳn hoi. Ba anh vậy là một tân tong, một tân tòng trên danh nghĩa, một tân tòng có thể vì một lời bói toán không căn cứ mà ghẻ lạnh mẹ con anh.

Cứ mỗi khi đêm về, chỉ còn mẹ con anh trong căn phòng sang trọng, đầy tiện nghi, nhưng thiếu tình người. Cứ mỗi khi như thế, anh lại thấy mẹ cầm trong tay tràng chuỗi Mân Côi, mẹ âm thầm lần hạt trong nước mắt. Anh không được đến nhà thờ, không được tham gia các lớp giáo lý, không được mang trên vai niềm kiêu hãnh của thiếu nhi Công giáo Việt Nam. Nhưng anh biết đọc kinh, biết lần chuỗi Mân Côi. Chính mẹ là người thầy đức tin đầu tiên của anh. Đêm đêm trước khi ngủ, mẹ kể cho anh nghe những câu chuyện về Chúa Giêsu, về Mẹ Maria, về các thánh, về các đẳng linh hồn. Ánh mắt thơ ngây của anh rực lên niềm khát vọng mãnh liệt khi nghe mẹ khẳng định rằng anh còn có một người Cha trên Trời, và người Cha đó sẽ quan tâm chăm sóc yêu thương anh, sẽ không bao giờ bỏ anh vì Cha trên Trời đã nói: “Cho dù cha mẹ có bỏ con đi nữa, thì Cha trên Trời cũng chẳng bao giờ bỏ con” (x. Is 40, 15).

Hai tuần sau cái ngày ba nói chuyện với mẹ, mẹ dắt anh âm thầm lặng lẽ rời khỏi căn nhà đồ sộ đó. Chiếc xe đò lăn bánh đưa mẹ con anh về lại mảnh đất duyên hải Nha Trang, quê mẹ.

Tuổi thơ của anh cứ tiếp tục trôi trong sự thiếu vắng tình cha. Anh được đến nhà thờ, đươc học giáo lý, được xưng tội, rước lễ. Dù tòa án dân sự đã tuyên bố ba mẹ li dị (dẫu vắng mặt mẹ), nhưng mẹ vẫn được xưng tội rước lễ vì mẹ là nạn nhân trong vụ li dị này. Mẹ không muốn hôn nhân bị phá vỡ, nhưng lực bất tòng tâm, do đó theo như mẹ nói thì mẹ không có vi phạm các mệnh lệnh luân lý (x. GLHTCG số 2386).

Tuổi thơ của anh nhẹ nhàng trôi đi trong sự yêu thương bảo bọc của mẹ, của họ hàng bên ngoại… Nhưng trong trái tim anh vẫn còn một khoảng trống, và khoảng trống đó ngày càng bị bôi đen… hình bóng của ba.

Thời gian cứ như thoi đưa, nỗi buồn của mẹ vơi dần. Nhìn anh mỗi ngày mỗi lớn, mỗi ngày mỗi thành công trên con đường học hành, thành công trong sự nghiệp, nỗi buồn năm nào giờ được khỏa lấp. Giờ anh đã 28, đã qua cái tuổi chết yểu, mỗi lần nghĩ về nó, anh chỉ cười mỉm. Giờ chắc trong tâm trí ba, anh chỉ là một linh hồn, anh chẳng còn tồn tại trên cõi đời này nữa rồi. Anh cố gắng quên đi vết đen trong tim, anh đè nó xuống… Nó chìm, nhưng nó mỗi ngày một lớn mà anh chẳng hề hay biết… Cho đến sáng nay…

Sáng. Anh có hẹn với đại diện của một công ty sản xuất đồ gỗ mỹ nghệ cao cấp trên Tây Nguyên, họ muốn ngân hàng nơi anh làm việc hỗ trợ vốn. Nghe bảo nhiều ngân hàng đã từ chối họ, có lẽ ngân hàng của anh là phao cứu sinh cuối cùng của họ, nên mới lặn lội xuống đây gặp anh. Anh biết đâu rằng công ty đó đã từng sẽ là của anh. Cho đến sáng nay, khi thoáng thấy bóng dáng của người đại diện công ty Gỗ Đại Ngàn, lúc này anh mới biết. Vết đen trong tim anh bị bung ra, xiềng xích lâu nay anh buộc vết đen ấy giờ bị gỉ sét, bao nhiêu hình ảnh đau khổ lúc nhỏ lại hiện về, hình ảnh mẹ đẫm nước mắt âm thầm dắt anh rời khỏi căn nhà ấy ùa về… Chúa cho anh cơ hội trả thù hay Người đang thử thách anh?

Cái hẹn sáng nay bị hủy bỏ trong sự tiếc nuối của ông ta. Anh tránh mặt, anh chưa sẵn sàng đối diện với ông ấy. Nhưng sao kì vậy? Anh có lỗi gì đâu? Chính ông ta mới là người phải sợ chứ, chính ông ta mới là người có lỗi với mẹ con anh. Ông ta ghẻ lạnh mẹ, ghẻ lạnh anh. Chính ông ta đơn phương li dị, là người phá vỡ mối dây hôn phối thiêng liêng (x. GLHTCG số 2384). Ông ta mới là người phải sợ khi đối diện với anh, ông ta mới là người phải né tránh anh, chứ sao anh lại là người né tránh?

Trầm ngâm bên chén trà nóng, với lấy cái điện thoại, anh gọi cho Ngân, cô bạn thời cấp 3 cùng lớn lên trong phong trào Thiếu Nhi Thánh Thể, giờ là một nhà báo khá thành công.

Hai ngày sau, những thông tin về ông ta, về cuộc sống, về công ty đã được đặt ngay ngắn trên bàn làm việc của anh. Thì ra sau khi đuổi mẹ con anh đi, ông ta đón một người phụ nữ khác về sống chung. Nhưng 20 năm qua, bà ấy chỉ biết ăn chơi phung phí tiền của ông, ngặt hơn là sau bao nhiêu lần mang thai, đều gặp vấn đề… mãi đến nay vẫn không có con. Công ty Gỗ Đại Ngàn thì làm ăn ngày một thua lỗ vì chất lượng sản phẩm không bằng các chỗ khác, giá thành không có tính cạnh tranh. Hiện giờ nếu không có một số vốn lớn để nhập những thiết bị hiện đại của Nhật về thì coi như sẽ phá sản trong nay mai, và có nguy cơ ở tù vì nợ là khá cao.

Cơ hội đây sao? Chỉ cần anh không đồng ý, chỉ cần anh lờ đi, anh từ chối, ông ta sẽ ngồi tù. Nỗi căm hờn trong lòng anh bị dồn nén bao năm qua sẽ được giải tỏa. Những đau khổ của mẹ con anh trong suốt 28 năm qua sẽ được bù đắp. Nhưng liệu rằng mẹ anh có thực sự vui? Bao nhiêu năm nay mẹ có nhắc gì tới hai chữ thù oán đâu. Mẹ đâu dạy anh phải trả thù. Liệu rằng lòng anh, lương tâm anh có được bình yên? Chẳng phải Chúa luôn dạy anh phải yêu tha nhân như chính mình sao? Chẳng phải Chúa luôn dạy phải yêu thương và cầu nguyện cho cả kẻ thù sao? Mà đây lại là ba. Anh sẽ tha thứ, sẽ giúp đỡ ba?

Không. Anh nhất định phải trả thù, anh không phải Chúa, anh không phải thánh nhân, anh là một con người, rất người. Ân đền oán trả, ông ta không phải là đối tượng yêu thương của anh… Vết đen trong tim anh như vết dầu loang trên biển, rộng dần… chiếm lấy trái tim nhỏ bé của anh. Anh nhất định cho ông ta nhận hậu quả xứng đáng, anh nhất định cho ông ta thấy ông ta đã lầm khi đuổi mẹ con anh đi. Quyết đinh vậy, anh đứng dậy, mạnh mẽ rời phòng làm việc.

Về nhà, anh thấy mẹ và Ngân đang nấu ăn. Thấy anh có vẻ mệt mỏi, mẹ hỏi:

- Hôm nay con gặp chuyện gì không vui sao?

- Dạ không có gì đâu mẹ.

Anh giấu mẹ, anh sợ nếu mẹ biết, mẹ sẽ ngăn cản anh, mẹ sẽ khuyên anh giúp ông ta.

- Sáng mai con chở mẹ với cái Ngân đi tới chỗ này nghen.

- Dạ. Mai con nghỉ làm rồi chở mẹ với Ngân đi.

Sáng sớm, chiếc ô tô lăn bánh nhẹ nhàng đưa mẹ con anh đi. Đỗ xịch trước một căn nhà khá rộng. Là căn nhà tình thương của mấy soeur Vinh Sơn. Mẹ vẫn hay nhắc anh gửi tiền hàng tháng giúp các soeur. Anh vô tâm quá, bao lâu nay chưa một lần anh đến đây.

Mới gặp lần đầu mà bọn trẻ vây quanh anh, bắt anh chơi với chúng, bắt anh làm bò cho chúng cưỡi… Những ánh mắt ngây thơ của mấy nhỏ như đưa anh về với tuổi thơ của mình. Anh cũng đã từng mong mình được cưỡi trên lưng ba, cũng từng mong ba bày trò cho anh chơi… Tội nghiệp!

Hôm đó anh thả mình hùa với lũ nhỏ, anh như người anh cả giữa bầy em. Vui nhộn. Hiền lành.

Trưa đó ăn cơm xong, anh thấy lũ trẻ tụm lại bàn bạc với nhau chuyện gì đó, rồi chúng chạy tới nói gì đó với soeur phụ trách. Sơ mỉm cười gật đầu.

Lúc chào từ biệt ra về, lũ trẻ chạy theo anh. Một bé nhỏ nhất đám, mắt tròn to như hai viên bi, ngọng ngịu cầm tay anh nói:

- Chú ơi! Chú làm bố chúng cháu đi.

- Đi chú…

- Đi chú…

- Làm bố chúng cháu đi chú…

- …

Tiếng bọn trẻ cứ ngây ngô vang lên. Anh sững người. Anh hiểu cảm giác đó, anh cũng như chúng, cũng thèm một người ba. Đưa mắt nhìn soeur phụ trách, anh thấy một ánh mắt chờ mong. Ngoái nhìn mẹ, anh bắt gặp ánh mắt rưng rưng của người, phải chăng chuyến đi này là sự sắp xếp của mẹ?  Phải chăng mong ước lớn nhất của mẹ là gia đình được đoàn tụ? Bấy lâu nay, vì cái tôi ích kỉ, anh cố thuyết phục mình rằng anh ghét ba, anh không cần ba… Nhưng anh đã lầm. Văng vẳng bên tai anh tờ lộc Lời Chúa: “Con ơi hãy săn sóc cha con khi người đến tuổi già, bao lâu người còn sống […] Ai bỏ rơi cha mình khác nào kẻ lộng ngôn…” (x. Hc 3, 12. 16). Có lẽ chính nhờ đời sống thiêng liêng tốt lành của mẹ mà giờ đây trái tim anh được đập trở lại, được trong trắng trở lại…

Dang rộng đôi tay, anh ôm lấy lũ trẻ, miệng khẽ lẩm bẩm: BA ƠI! CON THÈM BA.


Mã số: 18-007

Ba mươi tuổi, anh là trưởng phòng kinh doanh của một công ty vận tải lớn ở thành phố biển Nha Trang xinh đẹp. Ở cái tuổi tam thập nhi lập, địa vị xã hội ổn định, thành công trong công việc, anh là mẫu người lý tưởng của nhiều cô gái cùng cơ quan.





Anh là con đầu trong một gia đình có bố là giáo viên toán cấp ba đồng thời là Chủ tịch HĐGX ba nhiệm kì liền, mẹ là giáo viên văn cấp hai cũng là một thành viên nhiệt tình của hội Hiền Mẫu. Đứa em kề đang học năm thứ 3 thần học của Đại chủng viện Sao Biển. Nhìn vào gia đình anh, ai cũng ao ước, mấy cô trong giáo xứ hay trêu anh sao mà băm rồi vẫn chưa chịu lập gia đình? Có cô còn nói để giới thiệu con gái cho. Anh chỉ biết cười trừ. Ba mẹ cũng mong anh sớm yên bề gia thất, nhưng biết sao được, anh chỉ biết cười rồi trả lời bằng câu cửa miệng: “Ý Chúa chưa cho”.


Thật ra nói anh không yêu ai hay chưa yêu là không đúng. Nói cho đúng là anh chẳng dám yêu. Anh đè nén, che giấu tình cảm của mình vì anh không dám, anh không muốn đối diện với tình yêu, anh không dám đối diện với sự thật bao lâu nay anh che giấu: Anh đang có cảm tình đặc biệt với một anh cùng cơ quan (dĩ nhiên là đơn phương). Làm sao anh có thể nói ra sự thật này? Làm sao ba mẹ, gia đình, giáo xứ có thể chấp nhận sự trái tự nhiên này? Nếu nói ra, anh và gia đình có đủ dũng khí để đối mặt với hàng xóm, với mọi người? Những tiếng xầm xì có thể chôn sống gia đình anh. Còn danh dự của gia đình? Của ba mẹ? Của đứa em? Giáo xứ, cha xứ sẽ nói gì? Là một người có học thức, được đào tạo về văn hóa và giáo lý, anh biết rằng: “Các hành vi đồng tính luyến ái tự bản chất là vô trật tự” (x. Tuyên ngôn Persona Humana, Thánh Bộ Giáo Lý - Đức Tin, số 8). Chính anh còn không chấp nhận mình thì làm sao người khác, làm sao xã hội, làm sao Giáo hội chấp nhận anh được? Anh chỉ còn biết gửi những tâm sự của mình vào những trang nhật kí được giấu kĩ trong ngăn bàn.

Anh chỉ có thể tâm sự với những trang giấy vô tri, anh sợ con người, anh sợ vì có triết gia nào đó đã từng nói con người ngày nay đang tự đào mồ chôn nhau bằng chính cái miệng của họ. Anh lo sợ có lý, có gì đáng sợ hơn bia miệng? Chẳng phải ông bà vẫn nói trăm năm bia đá cũng mòn, ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ đó sao? Chính vì vậy anh tự hứa với lòng mình sẽ mãi mãi chôn sâu bí mật này, mãi mãi chôn sâu sự vô trật tự oái ăm này.

Cuộc sống vẫn thế, cứ bình lặng trôi đi, cuốn nhật kí ngày một dày hơn. Cảm ơn mày! Nhờ mày mà mỗi đêm tao chợp mắt được chút ít, nhờ mày mà lòng tao nhẹ hơn… Nó như người bạn bất khả chia lìa của anh. Cho đến một ngày…

Hôm đó anh trở về nhà sau một ngày làm việc khá mệt mỏi. Vừa vào nhà, anh gặp ba mẹ đang ngồi ở phòng khách. Quái! Sao giờ này ba lại ở nhà? Hôm nay ba đi dạy mà ta? Anh lấy làm lạ. Nhìn kĩ, anh thấy mắt mẹ đỏ hoe, còn ba nhìn anh giận dữ… Cuốn nhât kí… nằm trên bàn. Anh nhào tới, chụp lấy cuốn sổ.

- Ba…mẹ…! Sao ba mẹ lại lục đồ của con?- Anh thét lên.
Sáng nay mẹ dọn phòng cho anh vì đêm qua anh đi tiệc tùng với đám bạn tới khuya mới về, sáng lại đi làm sớm nên căn phòng hơi bừa bộn. Mẹ anh vô tình thấy cuốn sổ nhét trong ngăn bàn, mà tính anh vốn cẩn thận nên bà nghĩ chắc anh bỏ quên. Bà lấy ra định để lên giá sách… thì tấm hình một người con trai rơi ra… Không phải anh, là một người cùng công ty mà có mấy lần theo anh về nhà chơi. Tò mò, lần giở từng trang nhật kí, bà ngã quỵ xuống giường, hồi lâu mới tỉnh lại. Bà gọi cho ba.
Mẹ anh bồi hồi nhớ lại, lúc bé mẹ hay mua đồ chơi cho anh, nhưng những thanh kiếm nhựa, những khẩu súng giả đều bị anh vất lăn lóc qua một bên. Anh năn nỉ mẹ mua cho anh những con búp bê, anh thích thú lạ. Quần áo anh lựa luôn có gam màu hết sức nhẹ nhàng… Đúng rồi, chính do mẹ anh quá vô tâm nên không nhận ra sự khác lạ về tâm lý và tính cách của anh, đáng lẽ mẹ nên nhận ra từ lâu rồi mới phải.
- Ba…mẹ… Đây không phải là lỗi của con, con xin ba mẹ…- Anh quỳ mọp dưới đất.
- Mày im đi…đồ hư đốn…đồ kinh tởm!- Ba anh gào lên.- Mày làm ô nhục cái gia đình này.
- Ba… Con xin ba… Ba đừng nói vậy…
- Im đi!- Ông quát to.

Anh vẫn quỳ đó, gánh chịu cơn giận của ba. Mẹ anh chỉ biết khóc. Mẹ khóc vì thương anh hay vì… anh không biết, nhưng anh biết một điều là từ nay anh sẽ không sống yên ổn trong nhà được nữa.

Anh lặng lẽ ôm cuốn nhật kí lên phòng. Anh tự hỏi anh có làm gì đâu mà ô nhục? Anh có đòi yêu ai đâu? Anh có đòi sống chung với người cùng giới đâu. Vì không muốn gia đình bị đàm tiếu nên bấy lâu nay anh im lặng. Trong thinh lặng, anh chiến đấu với những cảm xúc, những nhu cầu sai trái… Ba mẹ có biết con phải chiến đấu với nó hằng ngày không? Ba mẹ có hiểu được cảm giác của con không? Ba mẹ có biết con đau khổ như thế nào không? Ba mẹ có biết hằng đêm con phải chiến đấu với những đòi hỏi xác thịt ghê gớm tới mức nào không?…

Cuộc sống nặng nề trôi qua. Ba anh xin ra khỏi HĐGX sau khi bị cha sở gọi lên quạt cho một trận. Có ai đó đã nghe cuộc cãi vã của gia đình anh. Sự việc nhanh chóng lan đi. Thế là kì thị. Thế là dòm ngó. Thế là đồn thổi. Thế là cô lập.

Anh giam mình trong bốn bức tường. Anh cô độc trong chính ngôi nhà của mình. Lặng lẽ như một cái bóng, anh âm thầm chịu đựng… Chúa ơi! Có phải lỗi của con không. Con đã cố gắng sống khiết tịnh, con đã cố gắng sống theo lời Hội thánh dạy, con muốn được nên trọn lành (x. GLHTCG 2359), dù xuất phát điểm của con thật tệ. Con đã tin Chúa sẽ vẽ đường thẳng bằng những nét cong… Nhưng Chúa ơi…Chúa ơi… Con đang thất vọng… Sức con có hạn mà Chúa!

***

Đợt thuyên chuyển linh mục vừa rồi, cha Nam - một linh mục vừa du học về - được Đức Cha sai về coi một xứ trong thành phố Nha Trang. Cha là một linh mục đạo đức, thánh thiện và hết lòng yêu thương giáo dân.

Ở xứ được vài tuần, cha thấy có một chuyện khá lạ. Thường thì ông bà cố của các thầy thường xuyên đi lễ, thường xuyên tới nhà xứ lắm, mà đằng này ông bà cố của thầy Tân chẳng thấy hiện diện, dù ông cố là chủ tịch HĐGX khóa trước.

Để tâm tìm hiểu trường hợp lạ thường này, cha dần tìm ra nguyên nhân. Sau khi tìm hiểu cặn kẽ, kĩ lưỡng, cha lấy làm lạ là tại sao một xứ nằm ngay thành phố mà lại chưa cập nhật những tư tưởng của Giáo hội về vấn đề đồng tính? Sao lại kì thị những người như vậy? Sao lại lên án họ? Sao lại cô lập họ? Sao lại đàm tiếu gia đình họ? Những vấn nạn của gia đình ngày nay chưa đủ nhiều hay sao mà lại còn chất thêm lên lưng họ sự kì thị này nữa. Lòng cha đau lắm. Lỗi do ai? Chủ chăn hay đàn chiên? Dĩ nhiên không phải do anh hay do gia đình. Gia đình anh chỉ là nạn nhân, nạn nhân của sự lười biếng. Chủ chăn không nói cho người dân biết những lời dạy của Mẹ Giáo hội về trường hợp đồng tính. Giáo dân lười biếng tìm hiểu những tư tưởng của Giáo hội, nhưng lại siêng năng đưa ra những nhận định mang nặng tính bài trừ, dè bỉu của mình. Tội cho gia đình ông bà cố. Tội cho anh. Cha thấy mình cần phải lao đầu vào việc. Cha phải là chiếc cầu nối để nối Thiên Chúa với con người, giữa con người với con người (x. Tông huấn Pastores Dabo Vobis số 43).

Chiều đó trên chiếc xe đạp cũ, cha hòa mình vào dòng người đang hối hả trong giờ tan tầm. Dừng xe trước một ngôi nhà nhỏ trong một con hẻm, cha nhấn chuông. Một người phụ nữ trạc tuổi cha ra mở cổng. Thấy khách tới là cha xứ, mẹ anh ngỡ ngàng, bà vội vàng mở cửa.
- Con chào cha… Cha tới…
- Em chào chị!- Cha ngắt lời mẹ anh.
- Em tới xin anh chị bữa cơm chiều.- Cha mỉm cười nói tiếp.
- Dạ… Dạ…- Có lẽ hơi bất ngờ nên mẹ anh không biết nói gì.
- Sao?... Có cho em ăn ké không?
- Dạ…dạ… Con mời cha vào nhà.
Vượt qua ánh mắt soi mói của hàng xóm, bỏ đi những lời xầm xì chung quanh, cha vào nhà anh.
- Em chào anh!- Cha mở lời vui vẻ khi thấy ba anh từ trên lầu đi xuống.
- Dạ con chào cha, quý quá, sao cha biết nhà con mà tới?- Ba anh vồn vã.
- Dạ em hỏi thăm…
- Hân hạnh cho gia đình con quá…- Vừa nói ba anh vừa đảo mắt ra ngoài cửa. Ngoài đó cũng có những ánh mắt đang soi mói nhìn vào.

Câu chuyện sôi nổi bên mâm cơm. Từ chuyện đông tây kim cổ đến chuyện giáo dục, chuyện đời thường, chuyện nhà đạo… Cha thấy đã đến lúc cần thoa thuốc vào vết thương cho gia đình.
- Anh Tư nè (ba anh thứ tư), em nghe nói dạo trước anh siêng năng đi lễ lắm, siêng năng làm việc nhà Chúa lắm, sao từ dạo em về, em không thấy anh nữa ta?- Cha ôn tồn, vừa gắp thức ăn vừa nói.
Mẹ anh nghe tới đó, bà buông đũa, đưa mắt nhìn ba. Mắt ba nhíu lại, nhìn xa xăm, lặng lẽ rít điếu thuốc. Cha biết vết thương đang xót, phải thêm thuốc oxy già để sát trùng luôn.

- Có phải vì chuyện thằng Phú không?
Đến lúc này thì không gian trở nên yên ắng lạ lùng. Nãy giờ nấp trên lầu, anh nghe tất cả. Hồi hộp. Anh chờ… Nhưng chờ gì nhỉ? Chẳng phải cha sở trước đã rao trên bục giảng là gia đình anh làm gương mù gương xấu sao. Anh còn chờ gì nữa?

Vết thương bắt đầu xót, xót kinh khủng. Cha tiếp:
- Anh Tư nè! Nói thiệt, em thấy trường hợp của thằng Phú nhà mình, nó đáng được gọi là một… anh hùng.
Anh hùng? Anh là anh hùng? Ánh mắt ngơ ngác của mẹ nhìn ba. Ánh mắt khó hiểu của ba nhìn mẹ. Thuốc đang có tác dụng.
- Anh chị không thấy sao, bao nhiêu năm nay nó đã sống theo lời Hội thánh dạy: “Những người đồng tính luyến ái được kêu gọi sống khiết tịnh… tiến tới sự trọn hảo Kitô giáo” (x. GLHTCG 2359).
- Thưa cha!! Chứ không phải Giáo hội luôn lên án những người đồng tính sao?
- Sai! Anh hiểu như vậy là sai. Giáo hội chỉ lên án những hành vi đồng tính luyến ái, còn những người đồng tính, Giáo hội luôn đón nhận với sự tôn trọng, cảm thông và tế nhị (x. GLHTCG 2358).
- Như vậy… như vậy… sao cha sở…

Nói tới đó, ba anh bưng mặt khóc. Thuốc đang có tác dụng tốt.
- Anh chị phải biết rằng Chúa có cách của Chúa, Ngài có thể vẽ đường thẳng bằng những nét cong. Thằng Phú bao năm nay đã sống quá tốt lành, chúng ta có lỗi với nó… Từ giờ phải yêu thương giúp đỡ nó. Anh chị hiểu và đồng ý với em không?

- Dạ con biết mình sai rồi.- Ba anh nghẹn ngào trong nước mắt. Hạnh phúc vỡ òa. Nhà ngục luân lý bao nhiêu năm qua nay bị phá bỏ.
Từ trên lầu, anh chạy xuống ôm lấy cha. Anh khóc như một đứa trẻ, những cảm xúc lâu ngày dồn nén… Chúa ơi… giờ đã có người hiểu được những cố gắng của con rồi… Con không cô độc, con luôn có Chúa… có gia đình, có Giáo hội đồng hành… Ôi Chúa… đường thẳng… nét cong.


Mã số: 18-006

Một chiều ngày đông. Mưa. Gió. Rét. Lạnh căm. Tan ca, rời khỏi nhà xe chỉ kịp đeo chiếc headphone vào tai, Đức phóng thẳng về nhà.

“Bà Maria ơi, trên đường bà thấy những gì, trên đường bà thấy những gì xin kể cho chúng tôi nghe, xin kể cho chúng tôi nghe”… Ôi, thật Mẹ Maria ơi, cái gì to thù lù thế kia…

Đức choáng váng trước vật thể lạ nằm chềnh ềnh ngay đầu đoạn rẽ vào đường về nhà mình. Dự cảm có chuyện chẳng lành, cậu rồ ga cho xe chạy nhanh về phía trước.

- Máu…máu… Ôi, Chúa ơi… có người…có người…

Sợ hãi, Đức lùi dần về phía sau. Mồ hôi trên trán cậu túa ra.

- Bình tĩnh…bình tĩnh lại… Làm gì…làm gì bây giờ?

Vừa sợ vừa lo nhưng cậu vẫn tỉnh táo nhận ra điều cấp bách lúc này là cứu người. Phải rồi, cứu người. Gấp gáp, Đức đứng dậy, vẫy tay ra hiệu với những người đi đường. Cậu kêu lớn:

- Ở đây có người bị tai nạn. Làm ơn giúp chúng tôi với! Xin giúp chúng tôi…

Nhưng… chẳng có ai thèm quan tâm đến lời khẩn cầu, đến cánh tay cậu đang giơ ra vô định dưới ánh đèn xe leo lét, mong mỏi một tấm lòng hảo tâm đỗ lại cứu người gặp nạn. Chợt, có một chiếc taxi tấp vô. Người tài xế ngồi trong xe ngoái cổ ra:

- Tai nạn hả, lên xe đi, đắt gấp đôi ngày thường thì đây chở không thì thôi…

Chẳng rõ ông tài đã nói gì, Đức vội vàng đỡ người bị nạn lên chiếc taxi còn mình thì phóng xe máy theo sau.

Giữ được bình tĩnh đến tận bây giờ có lẽ với cậu là cả một kì tích kể từ sau đêm định mệnh ấy- cái đêm mà cả gia đình, ba mẹ, chị hai cùng rời bỏ cậu đề về với Chúa. Họ đã mất trong một vụ tai nạn thảm khốc. Năm ấy cậu vừa tròn sáu tuồi. Sáu tuổi, cái tuổi quả nhỏ để chứng kiến sự ra đi của những người thân nhưng tận mắt cậu đã phải thấy sự bất động của ba mẹ, của chị gái giữa vũng máu đỏ loang lổ. Cũng chính cậu đã phải gào thét trong đau đớn, trong tuyệt vọng kêu xin sự thương xót của những người đi đường. Giả như lúc đó có ai chịu đứng lại giúp cậu thì có lẽ bây giờ ba mẹ, chị hai của cậu vẫn sống. Nhưng không, mọi người đểu bỏ mặc cậu. Chẳng ai chịu giúp cũng chẳng ai chịu quan tâm đến sự hiện diện của cậu trong đêm tối. Tất cả, tất cả lướt qua cách vội vàng, nhanh chóng như thể họ sẽ bỏ lỡ điều gì tuyệt vời lắm nếu nán lại vài giây với cậu. Đêm tai nạn kinh hoàng đó đã khiến một cậu nhóc sáu tuổi gần như rơi vào trầm cảm. Sự ám ảnh quá lớn khiến cậu bé lớn lên trong sự sợ hãi mỗi khi nhìn thấy máu hay thấy người bị thương. Nhưng lần này mọi chuyện đã khác. Con tim yêu thương mạnh mẽ lên tiếng không cho phép cậu làm ngơ trước sự sống mong manh của con người. Con tim ấy cũng khiến cậu có đủ sức mạnh để chiến thắng nỗi sợ của bản thân. Đã đến lúc cậu được sống là chính mình…

Tiếng còi cấp cứu kêu inh ỏi. Qua hàng nước mắt như bụi mờ làm nhòe ánh nhìn, Đức chỉ thấy mấy người mặc áo trắng muốt đang hối hả chạy theo chiếc xe chở người bị nạn. Cậu ngã khuỵu xuống sàn. Mặt thất thần. Ánh mắt lo âu. Miệng cậu lắp bắp điều gì đó đủ nhỏ để chẳng ai nghe rõ:

- Lạy… Chúa… con…xin…cứu…cứu…anh…anh ta…

Ngoài kia trởi vẫn đang mưa mà chẳng có dấu hiệu sẽ tạnh trong đêm. Đức ngồi bất động trên hàng ghế dài bệnh viện nghe tiếng mưa rả rich, rả rich qua từng kẽ lá. Đã hơn hai mươi năm trôi qua kể từ đêm định mệnh ấy nhưng hình ảnh đau thương về tai nạn năm xưa vẫn còn đó. Có vẻ như theo thời gian câu chuyện về một gia đình xấu số đã lùi xa, quá khứ đã bị phủ một lớp bụi mờ, nhưng vết thương trong tim cậu con trai ở lại thì chưa khi nào được chữa lành. Có những lúc, hàng đêm Đức không dám ngủ bởi cậu sợ rằng nếu nhắm mắt lại thì hình ảnh ba mẹ, chị hai nằm bất tỉnh, bên cạnh chiếc xe đổ sõng soài trên đường phố giữa màn đêm đen đặc lại hiện về. Nỗi đau quá lớn với một cậu bé con vừa bước chân vào lớp một khiến ai đó kịp nhớ lại cũng cảm thấy quặn lòng, xót xa. Thương cho con trẻ chỉ sau một đêm mà mồ côi cả cha lẫn mẹ, Cha Mân đã đưa Đức về cưu mang, che chở, chăm sóc. Sự vị tha, lòng nhân hậu của Cha tựa như liều thuốc quý dần lấp đầy khoảng trống đau thương trong trái tim cậu nhóc bé con. Bởi vậy nên giờ đây nhìn người đàn ông xa lạ quằn quại đau đớn trên chiếc xe đẩy vào phòng cấp cứu, kí ức xưa tựa như đã ngủ quên một lần nữa lại hiện về. Thật, khi trái tim người trẻ đủ lớn để hiểu được tính mạng của con người quý giá đến như thế nào, Đức không muốn những gì xảy đến với ba mẹ cậu lặp lại với người đàn ông đáng thương kia. Lo lắng khiến cậu chỉ biết cầu xin Chúa thật nhiều, xin Chúa đừng để bàn tay tử thần chạm đến con người ấy, để sau cậu chẳng còn cô bé cậu bé nào phải chịu nỗi đau mất người thân thêm nữa.

Chợt, cánh cửa phòng cấp cứu mở ra. Cô y tá bước đến trước mặt Đức, hỏi:

- Cậu là người nhà bệnh nhân sao?

- Dạ, vâng…

- Tình huống rất nguy kịch, bệnh nhân đang mất rất nhiều máu, mà ngân hàng máu của bệnh viện không còn nhóm máu phù hợp, anh có muốn hiến máu cho bệnh nhân không?

- Dạ…dạ…cháu có, thưa bác sĩ.

- Vậy mời anh đi theo tôi để làm xét nghiệm và truyền máu cho bệnh nhân.

Đức bước nhanh theo sau cô y tá đến phòng xét nghiệm. Lúc này cậu chẳng nghĩ được điều gì khác ngoài bằng mọi giá phải cứu sống con người đó. Cậu thật khác người! Cậu cũng có thể chọn làm như bao ai kia, phóng xe ù trong đêm mưa về với gia đình, về với mâm cơm đầm ấm nghi ngút khói trong tiếng nói cười rôm rả của cha, của các anh. Cậu cũng có thể từ chối khi cô y tá hỏi ai là người nhà bệnh nhân và thậm chí cũng có thể nói không khi bệnh viện cần người hiến máu. Nhưng, cậu đã chọn cách đi ngược dòng dù cho con đường ngược dòng ấy không hề đơn giản, không hề dễ dàng. Cậu không sợ bởi đời cậu có Chúa, có Mẹ. Tình yêu Chúa dành cho cậu quá lớn khiến cậu không cho phép mình được sống ích kỉ với bất kì ai. Chính Chúa đã ưu ái cho cậu được sống trong vòng tay yêu thương của vị mục tử nhân lành, đã cho cậu có cơ hội lớn lên với một tâm hồn, một trái tim nguyên vẹn. Cũng chính Người đã dạy cậu: “Anh em hãy yêu thương nhau như thầy đã yêu thương anh em”, thì giờ đây không có lí do gì khiến cậu phải chần chừ, suy tính trước việc cứu sống một mạng người ngay trên bờ vực của cái chết.

Mới đó cũng đã tờ mờ sáng. Suốt đêm Đức cũng chỉ liu riu chứ chắng dám chợp mắt. Cũng may đêm qua sau khi truyền máu xong cậu đã nhắn tin về để Cha khỏi lo lắng. Sáng nay, đợi người bệnh tỉnh lại cậu sẽ về nhà.

- Này chàng trai trẻ, cậu là người nhà bệnh nhân bị tai nạn đêm qua à? Cậu có thể vào thăm bệnh nhân rồi, nhớ là nói năng nhỏ nhẹ kẻo làm ảnh hưởng đến tinh thần người bệnh nhé.

- Dạ, cháu cảm ơn bác sĩ nhiều.

Đức đẩy cánh cửa bước vào. Một giây…hai giây…ba giây… Cậu đứng chết trân một chỗ, lặng người trước khuôn mặt người đàn ông đang nằm trên giường bệnh. Cậu toan quay ra nhưng lí trí khiến cậu ở lại. Hít một hơi thật sâu, gương mặt lạnh tanh, Đức lên tiếng hỏi:

- Anh thấy trong người thế nào? Ổn cả chứ?... Nếu anh đã ổn tôi xin phép ra về…

- Khoan… khoan đã… cậu… cậu Đức... Tôi… cảm ơn…cảm ơn cậu nhiều… Tôi…tôi… xin lỗi…

- Hừm, tôi cứu anh đơn giản vì lúc đó tôi không nhận ra anh. Nhưng nếu nhận ra tôi vẫn sẽ cứu bởi đó là điều Chúa của tôi đã dạy tôi, và cũng là điều cha Mân luôn nhắc nhở tôi. Còn xin lỗi, tôi không phải là người anh cần xin lỗi, mà người đó phải là ai chắc anh đã biết. Chào anh, tôi về.

Nói rồi Đức quay lưng bước đi. Cậu muốn bước thật nhanh ra khỏi căn phòng ngột ngạt này. Cậu không thể ngờ rằng người đàn ông mình đã cứu trong đêm tối, người cậu đã lo lắng, thấp thỏm lại là con người ấy -  Ba Lân, trưởng cục cảnh sát thành phố…

- Linh mục Mân, dạo này ông vẫn khỏe chứ? Lâu rồi chúng ta không có gặp nhau nhỉ?- Ba Lân giọng chế giễu.

- Thưa cảnh sát trưởng Ba Lân, tôi vẫn khỏe, cảm ơn… Còn việc gặp nhau à… Tôi có việc gì cẩn gặp anh nhỉ?

Cha Mân giương mắt nhìn thẳng vào viên cảnh sát trưởng hống hách khiến anh ta có phần né tránh. Giữ bình tĩnh, Ba Lân lên tiếng lấy lại uy thế:

- Được, được lắm mà... Tôi nghe nói độ này linh mục Mân hay nhắc đến chúng tôi khi giảng lễ nhỉ? Ông khen chúng tôi với bà con giáo dân à? Liệu tôi có phải đại diện anh em trong ngành cảm ơn lòng tốt của linh mục không nhỉ? Hay là tôi cho xe vào đón linh mục ra thành phố làm lễ tuyên dương nhé?

Chợt, Ba Lân đứng dậy bước vòng ra sau ghế chỗ Cha Mân đang ngồi, ghé sát tai Cha, bằng giọng đe nẹt, ông ta nói:

- Lần cuối cho ông nhé! Nếu ông vẫn còn tiếp tục tôi không để yên cho ông muốn làm gì thì làm đâu.

Nói rồi Ba Lân cùng tay sai kéo nhau ra về, cũng nhanh chóng, lanh lẹ như cái cách họ xuất hiện. Nhưng thật chẳng bao giờ họ chịu để yên cho Cha Mân. Ban ngày họ thuê người rải truyền đơn gieo rắc thông tin sai lệch, bôi nhọ thanh danh của Cha. Ban đêm họ lại ngụy trang thành những tên côn đồ xông vào quấy nhiễu, nhũng loạn nơi Cha ở. Có những đêm xuất hiện hàng mấy chục tên tay lăm lăm dao, gậy, ống típ nhảy vào phá cửa, đập vỡ đồ đạc trong phòng khách. Chúng còn ra tay đánh Cha Mân và các cậu ứng sinh sống cùng Cha nữa. Sau lần ấy, Cha Mân yếu đi nhiều vì phải nhập viện để nối lại xương sống. Mọi chuyện xảy đến với Cha, Đức chứng kiến tất cả. Cậu nhớ rất rõ khuôn mặt kẻ đã đe dọa, khích bác Cha bằng sự chế giễu hả hê đến lạnh xương sống. Cậu cũng nhớ rõ nét mặt đau đớn của Cha hứng trọn cả cây gậy vào lưng lúc đỡ đòn cho cậu. Làm sao cậu có thể quên được những tên ác nhân, những tên côn đồ ấy. Làm sao cậu có thể quên được những tên vì tiền tài, danh vọng, lợi lộc mà đang tâm bôi nhọ, đấu tố linh mục thân yêu của cậu. Chính cậu đã từng tự hứa với lòng mình sẽ không bao giờ tha thứ cho những con người ấy. Nhưng thật không ngờ, ý Trời lại khiến cậu gặp lại Ba Lân trong hoàn cảnh trớ trêu này. Thật nực cười!

Vừa về đến phòng, Cha Mân đã gọi cậu vào để hỏi thăm:

- Đức, sao con đã về rồi, người đàn ông kia sao rồi?... Có chuyện gì sao? Có cần ta giúp gì không?

- Cha ơi, ông ta… ông ta là Ba Lân.

Thoáng chút bàng hoàng nhưng không để Đức nhận ra điều ấy, Cha Mân tiến lại gần vỗ vai cậu:

- Con trai yêu dấu của ta, là Ba Lân thì có điều gì khiến con phiền lòng thế. Con đang cứu người mà. Cứu người đâu thể phân biệt người này người kia đâu con. Ta biết con giận Ba Lân vì ông ta đã từng làm hại ta, nhưng con trai yêu dấu của ta ạ, chính dân riêng được Chúa tuyển chọn lại là những kẻ trao nộp Người, nhục mạ Người nhưng vì yêu thương Người vẫn tha thứ, vẫn chọn hiến thân mình trên thập giá để cứu lấy nhân loại khỏi án phạt đời đời, vậy thì vì lý do gì con lại buồn lòng khi mình đã cứu được một mạng người chứ. Đừng suy nghĩ nhiều nữa, hãy quay lại chăm sóc ông ta. Hãy chắc chắn với ta một điều rằng con sẽ chỉ về nhà khi người đàn ông đó hoàn toàn bình phục.

- Nhưng…

- Không nhưng nhị gì hết! Con tự đi hay để ta chở con đi?

- Dạ…

Đức lái xe trở lại bệnh viện mà lòng đầy an nhiên, thanh thản. Lại một lần nữa Cha Mân dạy cậu bài học của sự bao dung, của lòng vị tha. Bài học này sẽ là mãi là hành trang, là kim chỉ nam cho cậu ra đi giúp đời giúp người. Những người cậu gặp cho dù có là ai đi chăng nữa, chỉ cần cậu mở lòng đón nhận bằng tình yêu thương thì mọi xa cách, mọi hận thù, mọi ân oán sẽ chỉ như lớp bụi mờ của thời gian trôi tuột mất sau cơn mưa rào nặng hạt.

Hai tuần sau, Ba Lân được xuất viện. Chiếc xe chở ông không về nhà ngay mà dừng lại trước cổng nhà Cha Mân.

- Chào linh mục, linh mục vẫn khỏe chứ?

- Lần này thì tôi có thể nghĩ anh hỏi thăm tôi thật lòng nhỉ?

- Hà hà, thật lòng… Phải rồi, thật lòng… Thưa linh mục, cậu Đức có nhà không?

- Anh cứ vào trong, tôi sẽ gọi Đức ra cho anh.

Trong căn phòng khách nhỏ xinh, còn thơm mùi gỗ, ba con người một già hai trẻ ngồi trầm ngâm cạnh nhau bên tách trà nóng còn nghi ngút khói. Ba Lân cất tiếng phá tan bầu không khí im lặng:

- Lần này tôi đến… là để xin lỗi linh mục vì những điều không tốt tôi đã làm… và tôi cũng muốn…

Chuyển ánh nhìn sang phía Đức, Ba Lân chậm rãi tỏ bày:

- Cậu Đức, nói ra những lời này tự tôi cũng thấy thật đáng xấu hổ. Chắc cậu vẫn còn giận. Đã gây ra bao nhiêu sự mà tôi lại mong một lời xin lỗi có thể nhận được sự tha thứ từ linh mục Mân và tử cậu… Ha ha, tôi thật quá ảo tưởng nhỉ… Nhưng thật sự sau tai nạn đêm hôm ấy tôi nghĩ mình đã chết, vậy mà tôi lại được cậu cứu, được cậu truyền máu cho. Sau tất cả tôi chẳng đáng được như vậy nhưng thật không ngờ… Cảm ơn cậu rất nhiều. Cảm ơn vì đã… cho tôi được sống thêm một lần nữa…

Có lẽ đây là lần đầu tiên Đức thấy Ba Lân hiền lành, điềm đạm đến vậy. Hình ảnh này khác hoàn toàn với Ba Lân trước đây mà cậu từng gặp: hung hăng, ngạo mạn, hách dịch. Thật như người đời vẫn nói, con người ta từ cõi chết sống dậy thường sống triết lí hơn, sống đẹp hơn và suy nghĩ cũng đổi khác hơn. Nhưng với Đức, cậu hiểu được rằng mọi sự ở đời này đều do bàn tay Chúa. Chính Chúa đã tác động, đã dẫn một con người cứng lòng, chai đá như Ba Lân trở lại với đường ngay công chính, trở lại với sự lương thiện tuyệt hảo mà Chúa đã đặt sâu trong trái tim mỗi con người.

- Ba Lân, sao anh lại nói vậy nhỉ. Cha Mân còn tha thứ cho anh nữa mà. Làm sao tôi có thể cố chấp không bỏ qua được cho một người biết hối lỗi chứ.

- Này Ba Lân, tôi không nghĩ một người như anh cũng có lúc sướt mướt thế này đâu đấy.- Cha Mân tếu táo.

- Hà hà, đời người mà, ai chẳng có lúc này lúc kia phải không linh mục, phải không cậu Quân?

- Ờ… ờ… phải, phải…

Nhìn người Cha yêu thương và viên cảnh sát nói cười rôm rả, lòng Đức dâng trảo hạnh phúc. Quả thực mọi sự đã theo ý Chúa. Chính Người đã làm thay đổi tất cả. Từ đây căn phòng này sẽ chẳng còn những tiếng hằm hè, những giọng nói đe nẹt mà sẽ mãi vang vọng những tiếng cười, những chuyện thăm hỏi thân tình. Từ đây sợi dây yêu thương sẽ được nối dài, nối dài thêm mãi…

Suối Ngàn
Đêm đông!
Chúa đã ngự đến buôn làng
Người dọi ánh sáng xua đi tăm tối
Người ngự đến giữa những ngôi nhà sàn,
Người ở tại buôn làng
Của miền cao nguyên heo hút!
Đêm đông!
Từng đợt gió lạnh ùa về
Thổi từng hồi lùa xuyên qua vách nứa
Em bé nằm co ro nơi sàn nhà,
Mảnh chăn rách hôi mùi
Dưới gầm sàn đàn lợn kêu vì đói!
Đêm đông!


 Chân Ama thêm nhức mỏi
Cuộc gian nan đã qua mấy quả đồi
Đời Amí đã lội nhiều con suối,
Đã qua nhiều mùa rẫy
Lời kinh đêm thầm thĩ nhớ đến Người!
Đêm đông!
 
Ánh trăng thanh thanh sáng tỏ
Nghe thấy tiếng Người đang nói nhỏ
Ta yêu mến bao nhiêu mảnh đất này
Ngày lại ngày Ta đến
Thăm từng nhà và sẽ ở lại đây!
Đêm đông!
 
Người sinh xuống giữa nơi này!
Đã ban thêm nguồn sức sống bình yên
Buôn làng ơi hãy vang tiếng còng chiêng!
Mừng con Chúa Trời giáng thế
Ánh sao khuya luôn dẫn lối chỉ đường!
Đêm đông!
 
Sẽ vơi đi cái gió lạnh
Ngày sẽ thêm muôn cái nắng ửng hồng
Cho muôn đời ấm áp trong tình Cha
Cho buôn làng vang lời kinh
Cám ơn Người cho niềm tin vui sống!
Đêm đông!
 
Sẽ chẳng còn thêm trống vắng
Ngôi nhà sàn lửa ấm sẽ bừng lên!
Tình thân ái anh em cùng ngợi khen,
Người Kinh, người Thượng chan hòa
Chung một nhà ấm áp trong tình Cha!















































Mã số: 18-005

“Mẹ ơi, sao con không được ra biển nữa?”

“Mẹ ơi, sao nhà mình không nấu món cá kho tộ nữa hả mẹ?”

“Sao ba con với chú Năm không ra khơi nửa hả ông?”

“Chúa ơi, mất hết rồi, mất cá tôm, mất biển xanh, mất miếng cơm rồi. Gia đình con mai này biết sống sao đây…”

Những câu hỏi ngây ngô của bé con làm bao bà mẹ nghẹn ngào không nói nên lời. Làm sao có thể trả lời cho chúng rằng biển đã chết, tương lai của gia đình chúng đã đóng sập tại đây. Cũng làm sao có thể nói hết cho được những tiếng than ai oán, những tiếng khóc đau thương không biết tự bao giờ đã trở thành giai điệu não nùng, ảm đạm bao quanh miền đất nhỏ.

Từ ngày cá chết, cuộc sống của bà con làng chài An Hải bị đảo lộn. Bên lương cũng như bên giáo, ai cũng đau lòng, lo lắng không biết mai này miếng cơm sinh nhai sẽ kiếm từ đâu. Họ sinh ra đã là con của biển lớn nên số phận an bài cho họ suốt cuộc đời lênh đênh, trôi dạt trên biển. Vậy nên ở cái tuổi mười lăm, mười sáu  đáng lí ra các em nhỏ phải được đến trường học hành cùng chúng bạn để có cơ hội theo đuổi những đam mê, những mơ ước, những chân trời rộng mở thì thay vào đó con em làng chài phải theo cha, theo anh vật lộn với cuộc sống mưu sinh, lam lũ, cực nhọc, thậm chí phải đương đầu trước đầu sóng ngọn gió để tìm miếng cơm cho cả mấy miệng ăn. Buồn lắm khi chả mấy ai tuổi này ở làng quê nghèo An Hải được cắp sách đến trường, được tiếp tục theo đuổi ước mơ, hoài bão nếu gia đình không thuộc vào loại khá giả. Bởi lẽ cuộc hành trình trên biển đâu phải lúc nào cũng mang về những ang, những boong đầy những cá, những tôm mà có khi đi năm về hai, có những khi thuyền lớn hút gió ra khơi và đi ra mãi không bao giờ trở về. Bát cơm ấm bụng ngày gió bão cũng là quá xa xỉ với người dân nơi đây nên họ chỉ dám nghĩ tới dong buồm khơi xa mong kéo đầy những mẻ cá để cho con tấm áo mặc, cây bút, tập sách đến trường chứ chưa một lần dám mơ về một ngày mai cuộc sống đủ đầy, no ấm. Cũng bởi lẽ đơn giản, họ yêu biển, yêu sông nước như yêu chính cha ông, tổ tiên của mình. Họ muốn bám sông, bám biển như muốn giữ lấy cái nghề mà cha ông đã lưu truyền lại cho con cháu muôn đời. Chắc bởi thế nên nhìn hàng đàn, hàng đàn cá lớn nhỏ chết thối, hôi tanh trôi dạt vào bờ, nhìn làn nước đục ngàu, xám xịt hiện ra sau lớp sóng va vào nhau vỡ òa thành những bọt nước đen ngòm khiến họ xót xa, đau đớn. Nhà cả mấy miệng ăn giờ thì…?

Cũng từ ngày cá chết trắng biển, Cha Quỳnh- vị linh mục già của giáo xứ An Hải, không đêm nào chợp mắt được. Người vừa lo vừa sợ, lo vì các giáo dân của mình chẳng có cơm ăn, bữa no bữa đói, lại sợ đoàn chiên kéo nhau bỏ xứ, bỏ đạo tha phương cấu thực phương xa. Nhưng... chúng không bỏ xứ, bỏ đạo thì lại lao vào rượu chè, lô đề, đỏ đen, ma túy, nghiện ngập. Lòng Cha già đau biết mấy! Có ai tưởng ra được những ngày này? Có ai dám nghĩ tới giáo xứ An Hải sẽ lâm vào sa sút, bi lụy, đau thương như những ngày này? Đâu rồi những Thánh lễ nghiêm trang sốt sắng? Đâu rồi những giờ đọc kinh gia đình phạt tạ Thánh tâm đầy ơn ích, thiêng liêng? Đâu rồi những buổi tập hát say sưa, những ngày tập dâng hoa lòng đầy thành kính, mến yêu? Và đâu rồi hình ảnh những cô bé, cậu bé con vui cười, tíu tít nhau tới nhà thờ học kinh bổn, giáo lí? Đâu cả rồi? Những ngày hạnh phúc ấy nay còn đâu ngoài những tiếng thở dài, những tiếng khóc thút thít, những đêm cờ bạc đỏ đen, những chầu rượu bia tới sáng, những tiếng trách móc, cãi vã thậm chí xô xát, đánh đập. “Lạy Chúa lòng lành, sao Ngài lại để đoàn chiên của con trở nên như thế này, giờ con phải làm sao đây?”. Sự lo lắng, xót thương xen cả nỗi đau đớn, thất vọng được Cha Quỳnh dâng cả cho Chúa. Bởi lẽ trái tim người trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng luôn xác tín một điều rằng: Thiên Chúa luôn công bằng, Ngài không cho ai quá nhiều cũng không lấy đi của ai tất cả. Ngài sẽ đến lúc chúng ta không ngờ nhất, Ngài sẽ vẽ đường thẳng trên những đường cong. Bởi Ngài là Cha giàu lòng yêu thương, yêu thương đến nỗi hiến mạng sống mình trên thập giá để cứu lấy các con thơ bé bỏng của Ngài. Hãy trông đợi, Ngài sẽ đến…

“Anh Văn, tối nay anh bận gì không, đến gặp tôi chút nhé!”

“Dạ vâng Cha, tối con sẽ đến”

Tút…tút…tút… Cuộc gọi kết thúc. Cha Quỳnh đứng trầm ngâm trong phòng khách lặng ngắm những con sóng trắng to lớn đang nô đùa, chạy nhảy, quấn lấy nhau ngoài khơi xa. Hình như Cha đang ý định làm gì đó. Rồi Cha gọi cậu Quân- con ông trùm vào ở với Cha từ lâu:

- Hai Cha con ta đi dạo chút nhỉ!

Quân bước đi bên cạnh Cha lặng lẽ, lặng lẽ. Phải chăng điều tốt nhất lúc này là để cho Cha già có những giây phút bình tâm suy nghĩ. Quân thương Cha lắm. Vì chuyện giáo xứ An Hải mà người đã thức trắng mấy đêm liền. Chợt, Cha già dừng lại trước tượng Đức Mẹ trong khuôn viên vườn hoa của nhà thờ. Lặng một lát, Cha hỏi:

- Quân này con, nếu con là ta con sẽ làm gì trong hoản cảnh này?

- Dạ, Cha cho phép con sẽ nói.

- Con cứ nói!

- Thưa Cha, từ ngày cá chết đến giờ, bà con giáo xứ An Hải chẳng còn kế sinh nhai nên lâm vào quẫn bách. Nếu cơm không đủ no thì sao người ta còn có sức để lo việc thờ phượng Thiên Chúa. Vậy nên con nghĩ phải làm cái gì đó để người dân có công ăn việc làm, tuy không phải là lâu dài và ổn định nhưng trước mắt sẽ nuôi sống họ và giúp họ tránh xa các tệ nạn xã hội. Sau đó ta sẽ nghĩ cách làm sao cho họ quay trở lại đời sống thiêng liêng, với Chúa và với Mẹ. Nếu được như vậy thì chẳng mấy giáo xứ An Hải lại quay trở về như trước kia đâu Cha ạ.

- Con trưởng thành thật rồi Quân ạ!- Cha Quỳnh nhìn Quân tỏ vẻ hài lòng.

- Cha quá khen con. Tất cả là do Cha dạy con mà.

Vị linh mục già nhẹ lòng hẳn đi khi thấy được sự trưởng thành từng ngày trong cậu nhóc mà mình chăm sóc. Bất giác, người ngước mắt lên chiêm ngắm khuôn mặt hiền từ, phúc hậu của Mẹ: “Lạy Mẹ, chính bàn tay dịu hiền của Mẹ đã chở che, dẫn lối con về với An Hải, cũng là Mẹ đã ở bên con tiếp sức cho con gây dựng giáo xứ này đi lên từ những viên gạch vỡ đầu tiên, thì nay cũng xin Mẹ cầu bầu cùng Chúa cho con biết cách cứu chữa đoàn chiên đáng thương thoát khỏi bóng tối, cảnh cơ hàn”. Lòng tín thác, cậy trông khiến Cha Quỳnh có một niềm tin mãnh liệt về một ngày mai tươi sáng của giáo xứ An Hải.

Cha Quỳnh về đây đã lâu. Ngày Cha về An Hải còn hoang sơ lắm. Giáo dân thì ít, đời sống đạo thì bệ rạc do không có ai coi sóc, chăm nom. Cùng lắm trong giáo xứ có mấy ông bà cụ già cả tối tối lại cùng nhau ra nhà nguyện đọc kinh cầu khẩn cho con cái khơi xa được thắng lợi trở về. Cuộc sống bấp bênh, khó khăn đủ đường khiến họ giữ đạo còn khó nói chi là sống đạo. Ấy thế nhưng vốn lớn lên từ biển cả, làn da, hơi thở, giọng nói mang đậm vị mặn mòi của biển nên người dân An Hải chất phác, thật thà lắm. Vì thế nên ngày Cha Quỳnh được cắt cử về trông coi xứ đạo nơi đây tuy có khó khăn, thiếu thốn về vật chất nhưng lại được bà con bên giáo cũng như bên lương gần gũi, quý mến. Lòng vị mục tử vì thương đoàn chiên bao năm sống xa rời ơn Chúa nên ngày ngày đều tới từng gia đình thăm hỏi, động viên, tìm cách dẫn dắt giáo dân trở lại với nhà thờ, đọc kinh cầu nguyện sớm tối. Đàn ông, con trai căng buồm theo gió ra khơi thì người già, phụ nữ con trẻ ở nhà chăm lo nhà cửa, sống đạo cách sốt sắng. Bẵng đi một thời gian giờ tính lại Cha già cũng đã gắn bó với cộng đoàn An Hải được hơn mười năm rồi…

* * *

Tối đến, sau giờ kinh tại gia, anh Văn lúi cúi trên chiếc xe đạp cà tàng đạp xe tới nhà Cha già. Nhà anh cách nhà Cha cũng khá xa, cả một con đê dài bao năm lầm lũi, hiên ngang chắn gió lớn, chắn thiên tai cho bà con An Hải. Trời lộng gió cuốn lấy tiếng xe đạp lạch cạch, lạch cạch của anh Văn vào biển lớn bao la để lại bóng đen tĩnh mịch, đáng sợ của đêm tối. Chừng hai mươi phút, anh đã tới. Nhác thấy cậu Quân đang lau chùi lại chiếc xe Dream mà Cha già mới mua hồi đầu năm, anh hỏi:

- Cậu Quân, Cha Quỳnh đâu?

- Dạ, bác ngồi uống nước, để cháu vào gọi Cha.

- Ờ, ờ…

- Anh Văn đấy hả, đợi tôi lâu chưa?

- Dạ, con cũng vừa mới đến thôi Cha ạ. Cha gọi con chắc là có chuyện quan trọng lắm.

- Ừ, phải rồi.

Nhấp một ngụm chè nóng, cảm nhận cái vị chan chát đăng đắng của nước chè the thé nơi cuống họng, Cha Quỳnh tiếp lời:

- Chắc anh cũng biết dạo gần đây giáo xứ ta đã xảy ra những chuyện gì…

- Dạ thưa Cha, con biết...

Nói đến đây lòng anh Văn phừng phừng lửa giận:

- Tất cả, tất cả cũng chỉ tại bọn tham tiền, tham lợi xả thải cái thứ chết người xuống biển của ta làm cho tôm cá chết hàng loạt. Bà con dân chài quanh năm bám sông, bám biển để sống… Nay cá chết, tôm chết ai còn dám căng buồm ra khơi mà đánh bắt nữa! Đánh bắt về cũng đổ bỏ bởi chẳng thể ăn mà cũng chẳng thể bán, Cha ạ. Ức quá, phẫn quá nên nhiều bác, nhiều chú đã…đã…

- Tôi hiểu cả anh Văn ạ. Vậy nên tôi mới gọi anh đến đây để bàn tính chuyện này. Sáng mai anh cùng tôi ra Tòa Giám Mục một chuyến rồi đến vài nơi để lo một số chuyện này nữa.

- Dạ vâng con sẽ đi cùng cha, nhưng… thưa Cha, con không có xe sao con chở Cha đi được.

- Thế anh có nhìn thấy cậu Quân đang lau cái gì kia không? Đi bằng cái đó chứ đi bằng cái gì nữa. Thôi, anh về đi, mai đúng 6h có mặt ở đây nhé.

- Dạ, vâng, con chào Cha.

Nhìn người đàn ông đã đứng tuổi mà vẫn còm cõi đi đây đi đó, chạy đôn chạy đáo lo công việc của giáo xứ trên chiếc xe đạp cũ rích, lòng Cha Quỳnh thương lắm. “Anh Văn ạ, phần thưởng của anh Thiên Chúa đã dọn sẵn trên nước Thiên Đàng cho anh rồi”, Cha già mỉm cười hạnh phúc.

Sáng hôm sau, đúng 6h đã thấy anh Văn ăn vận chỉnh tề đứng trước cửa nhà Cha. Chả mấy khi được cùng người ra Tòa Giám Mục nên nhìn anh có vẻ căng thẳng, hồi hộp.

- Ơ hay, cái anh này, đi ra Tòa Giám Mục chứ có đi đâu mà anh lo lắng thế, cứ làm như tôi bắt anh đi xuất cảnh không bằng.

- Hì hì… tại con vui quá ấy mà…

Đường từ đây ra Tòa Giám Mục không khó đi nhưng cũng xa, chừng mất tiếng rưỡi chạy xe. Anh Văn đèo Cha già. Hai Cha con vừa đi vừa bàn chuyện. Cha nhắc anh ra đó phải làm gì phải nói những gì. Anh Văn nhớ làm sao hết những lời của Cha, chỉ biết xin Chúa soi sáng chỉ đường cho anh biết ăn nói khôn khéo trước mặt Đức Giám và các linh mục ngoài địa phận.

- Tôi biết người dân Hà Tĩnh nói chung, giáo xứ An Hải nói riêng đang phải chịu cảnh khốn khó, thiếu thốn đủ bề. Hằng ngày anh em linh mục chúng tôi vẫn hiệp dâng Thánh lễ dâng lên Chúa lời cầu nguyện cho giáo dân An Hải, mong sao anh chị em biết yêu thương nhau, cùng nhau đồng lòng hợp sức vượt qua khó khăn, trong nguy khốn vẫn giữ được bổn đạo thiêng liêng của mình…- Đức Giám nói với Cha Quỳnh và anh Văn trong phòng khách nhà chung.

Mường tượng lại những gì Cha già đã dặn trên đường tới đây, anh Văn mạnh dạn bộc bạch nỗi niềm bao ngày của mình mong sao nhận được sự giúp đỡ từ Bề trên giáo phận cho bao con chiên An Hải đang gồng mình chống lại những đắng cay, những sóng gió cuộc đời:

- Dạ, thưa Đức Cha, thưa quý Cha, chúng con cảm tạ các ngài đã ngày ngày cầu nguyện cho chúng con. Ân tình này giáo dân An Hải chúng con xin ghi lòng tạc dạ và xin Thiên Chúa nhân từ trả công bội hậu cho các ngài. Nhưng thưa Đức Cha, thưa quý Cha con chỉ xin thêm một điều nhỏ bé này nữa thôi…

Hai cha con Cha già ra về mà lòng hân hoan, phơi phới. Vậy là đã tiến được bước đầu tiên, tuy chưa thể giúp giải quyết vấn đề dài hạn nhưng như vậy cũng phần nào đủ để lo cái ăn, cái mặc tạm thời cho người dân An Hải nếu như những nơi cần đến sắp tới người ta từ chối mình. Cha già nghĩ thầm trong bụng rồi cười rạng rỡ. Thật là Chúa chẳng tuyệt đường của con.

Rồi anh Văn chở Cha tới một vài xưởng đóng gạch trong trung tâm Thị xã xem xét tình hình. Băn khoăn không hiểu lí do vì sao Cha già dẫn mình tới cái chỗ toàn đất cát bụi mù, gạch nung đỏ lửa này, anh Văn đánh liều hỏi:

- Thưa Cha, mình đến chỗ này làm gì vậy ạ?

- Sao anh ngốc thế? Đến để tìm việc chứ còn đến để làm gì? Chả nhẽ tôi với anh đến để giám sát xem người ta có cắt công, cắt bước nào không hả?

- Thì ra là tìm việc, tìm việc…hà hà… Anh em An Hải có việc rồi, có việc rồi…

Anh Văn reo lên sung sướng như một đứa trẻ. Cha già đáng khâm phục thật. Nhìn Cha bận bịu với công việc mục vụ tại giáo xứ đến thời gian nghỉ ngơi còn hiếm hoi nên chả mấy ai nghĩ Cha già có thời gian chạy xe ra tỉnh, mà thật không ngờ mấy cái lò gạch nằm sâu tít tắp trong này Cha cũng biết. Chậc, chậc… Cha già bí hiểm quá! Thật chẳng biết Cha đang suy tính những cái gì.

Rời khỏi lò gạch, Cha Quỳnh lại chỉ đường cho anh Văn chở tới làng nghề chuyên đan rổ, đan rá xuất khẩu cách đó không xa. Ôi! Thật tạ ơn Chúa khi giờ này việc xuất khẩu rổ rá ra nước ngoài như diều gặp gió, phát triển không ngừng lại còn đòi hỏi một số lượng sản phẩm lớn mà làng nghề không thể đáp ứng được. Mai đây Cha Quỳnh sẽ cho người đi học cách làm rổ rá để về dạy cho bà con giáo xứ An Hải, mong sao bà con có công ăn việc làm kiếm được miếng cơm nuôi thân qua ngày để tránh cái sự “nhàn cư vi bất thiện” đã ăn sâu vào máu lâu đời. Dường như Chúa đang mở đường, mở lối cho Cha già trên hành trình cứu lấy những con chiên khốn khổ. Khi xưa tình yêu thương của Chúa cũng đã cứu sống lấy những con người đáng thương và tội nghiệp khi làm phép hóa bánh ra nhiều để cho họ thoát khỏi cơn đói khát trong dụ ngôn “Năm chiếc bánh và hai con cá”, thì nay tình yêu thương của Người lại tiếp tục được nối dài trong hình ảnh người mục tử Hân Quỳnh.

Điểm dừng chân cuối cùng trong hành trình của hai cha con là dòng tu Mến Thánh Giá của giáo phận. Được nghe kể chuyện từ lâu nhưng hôm nay là lần đầu tiên anh Văn được đặt chân đến mảnh đất hiền hòa, tốt lành này. Nhìn các ma-sơ cười rạng rỡ, vui đời sống thánh hiến trong chiếc áo dòng đen lòng anh Văn ngập tràn hạnh phúc. Chắc có lẽ lần này không cần hỏi anh cũng biết được lí do sao Cha già đưa anh tới đây. Cha muốn “mượn” nhà dòng một vài sơ về phụ giúp công việc giáo xứ như dạy nhạc, dạy kinh bổn cho các em nhỏ và hướng dẫn các hội đoàn một thời gian. Cha già tin rằng sự đạo hạnh, thánh thiện của các nữ tu sẽ mang đến một sức sống mới, một gương mặt mới cho mảnh đất An Hải vốn giàu truyền thống đức tin nhưng trầm lắng đổi thay sau một cuộc bể dâu. Từ đây sự cộng tác nhiệt thành của mọi thành phần dân Chúa cùng với Cha già và các nữ tu sẽ làm cho mọi nơi trong giáo xứ An Hải từ nhà Chúa tới nhà giáo dân, từ biển khơi tới bờ cát trắng, từ đất đỏ tới trời cao bao la sẽ lại âm vang những khúc thánh ca cảm tạ và tri ân Người.

Chẳng mấy trời đã ngả bóng. Tiếng xe Dream giòn tan lịm tắt khi đã đưa chủ nhân của nó về đến nhà bình an. Anh Văn nán lại cùng Cha già ăn bữa tối. Hai Cha con nâng ly rượu nho chúc mừng một ngày ra khơi thắng lợi mang về đầy những cá những tôm, có cả niềm hạnh phúc, sự vui sướng ngập tràn. Nhắc mới nhớ, Cha già đưa cho anh Văn số tiền mà hồi sáng Đức Giám đã cân nhắc đưa cho Cha về lo công việc mục vụ:

- Đây là số tiền Tòa Giám Mục cho An Hải. Anh cầm lấy về cho người vào thành phố mua gạo, mỳ tôm với các nhu yếu phẩm cần thiết cho bà con. Xem xét thật kỹ xem bà con thiếu gì rồi mua cho họ. Còn sáng mai anh gọi thêm mấy ông trưởng các hội đoàn vào trong tôi rồi chúng ta cùng tới từng gia đình hỏi thăm động viên họ, còn nói về việc đi làm trong xưởng gạch với việc đan rổ rá xuất khẩu nữa. Anh nhớ cho kĩ đấy nhé!

Anh Văn rưng rưng xúc động cầm lấy số tiền Cha đưa. Ánh mắt anh nhìn Cha đầy biết ơn, cảm tạ. Phải may mắn, phúc đức lắm xứ An Hải nhà anh mới có một vị linh mục yêu thương và đáng kính như vậy. Suốt quãng thời gian gắn bó với An Hải, Cha già chẳng màng tới gây dựng danh tiếng thanh thế cho mình như cách các quan chức đời thường vẫn làm. Thay vì đè đầu cưỡi cổ dân đen, tìm cách vơ vét áp bức dân cho đầy túi riêng, thì Cha Quỳnh lại đau đáu đi tìm lời giải đáp làm sao để dân của Chúa không phải bôn ba mãi nơi đầu sống ngọn gió, nơi sự sống như sợi tơ trước gió, làm sao để dân Chúa không còn nghèo còn khổ. Âu cũng do cái sự lo lắng nên thời gian mười năm trôi qua đã mang đi hình ành một linh mục điển trai, nhanh nhẹn rồi trả lại một vị mục tử với gương mặt đen sạm cùng làn da ngăm ngăm, tóc lơ phơ trắng và nụ cười hóm hém. Cách gọi Cha già thân thương có lẽ cũng từ đó mà nên.

Cảm xúc dồn nén khiến người đàn ông trung niên ôm chầm lấy thân hình người mục tử để mà khóc để mà thương. Và ngoài kia, trăng vẫn sáng, sóng vẫn đánh mạnh vào bờ báo hiệu một ngày mai hồi sinh, tươi sáng trên mảnh đất chài lưới giáo xứ An Hải.

Mã số: 18-003

Trong xứ đạo này, nhắc tới tên Lan, con bác Phương có lẽ không ai không biết. Em vừa xinh xắn, dễ thương lại còn chăm chỉ, ngoan đạo. Ngày nào cũng vậy, sau bữa cơm tối, Lan theo nhịp chân các bạn trẻ trong giáo xứ tới nhà thờ dự lễ, đọc kinh, cầu nguyện. Hè đến em hăng say học giáo lí cùng chúng bạn. Siêng năng việc nhà Chúa nhưng em vẫn luôn là học sinh ưu tú của trường, học trò ngoan của các thầy cô giáo… Nhưng dạo này bỗng thấy Lan trầm lắng lạ. Có vẻ em gầy đi nhiều…

“Bố mẹ chẳng lễ lạy gì mà có đứa con ngoan đáo để nhỉ!”

“Đúng là con hơn cha nhà có phúc, bố mẹ thì đến một chữ kinh bẻ đôi cũng không biết.”

“Giá như con bé Lan nó bù cho bố mẹ nó một chút thì hay nhỉ!”

Rồi thì…

“Ôi dào, để đấy rồi xem, rồi lại lấy tấm chồng ngoại đạo thì có mà nối gót cha rồi nhé!”

Lại còn…

“Cha nào con nấy thôi cũng chả ngoan ngoãn gì đâu.”

Nếu chỉ là chuyện tầm phào, là dăm ba câu tán gẫu khi cùng nhau chở gạch để xây lại khuôn viên nhà thờ của các cô các bác trong giáo xứ thì cũng là chuyện thường nhưng xót xa một nỗi họ lại cố tình để Lan nghe thấy. Lan cũng hiểu vì sao họ nói vậy lắm chứ, nhưng giờ em biết phải làm sao khi từ lâu cha mẹ em đã yêu công việc, yêu danh vọng hơn Chúa rồi…

Chẳng mấy đã ngày rằm. Trăng đêm rằm tròn vành vạnh, lấp lánh màu vàng chanh tươi mát, ngọt ngào, lơ lửng giữa khoảng trời bao la. Gió nhè nhẹ thổi làm cây lá xào xạc, rì rào. Lan ngồi một mình ngoài ban-công ngắm trăng. Ánh trăng sáng chiếu tỏa, gội mát tâm hồn em làm dịu đi trong trái tim em những muộn phiền, lo lắng. Đã có quá nhiều chuyện xảy đến. Mọi thứ dường như đã quá sức chịu đựng của một cô học sinh mới lớn. Bao năm Lan siêng năng đi lễ, siêng năng đọc kinh, cầu nguyện cùng Chúa và Mẹ mong sao những ước nguyện của em trở thành hiện thực. Ước nguyện của em chân thành lắm. Bởi đó đâu phải là những ước muốn cao siêu, viễn vông mà đơn giản chỉ là mong ước gia đình em biết yêu thương nhau trong ơn nghĩa Chúa, bố mẹ em trở nên bậc cha mẹ mẫu mực trong đời sống đạo. Nhưng đến giờ phút này mọi thứ vẫn chẳng thay đổi. Bố mẹ em chỉ xoay vần trong vòng xoáy công việc chẳng màng đến kinh sách, lễ lạy. Những lần Lan mạnh dạn bày tỏ điều ước bé nhỏ của mình thì lại gặp phải cơn thịnh nộ của bố: “Suốt ngày lễ với chả đọc kinh, đọc kinh đi lễ thôi có kiếm ra cơm cho nhà này ăn không, có làm ra tiền cho mày đi học không?”. Bố em nói vậy nhưng đâu biết rằng những lời nói ấy đã làm tổn thương tâm hồn ngây thơ của em. Em buồn lắm. Em chỉ biết cầu xin Chúa, xin Ngài luôn ở bên nâng đỡ che chở cho gia đình em, ban ơn cho bố mẹ em được lòng ăn năn trở lại và luôn là gương sáng cho em trong đời sống đạo thiêng liêng. Và thế, Lan cứ nhìn mãi lên bầu trời xa xăm. Ở nơi xa ấy, em đang cố gắng tìm kiếm một bóng hình quen thuộc, bóng hình mà em luôn mơ ước được gặp gỡ, bóng hình mà dù không hiện hữu vẫn luôn quan tâm lo lắng cho em. Có lẽ giờ này nơi ấy Chúa cũng đang nhìn về phía em, cũng đang dang rộng vòng tay bao bọc lấy, xoa dịu lấy tâm hồn bé nhỏ thơ dại của em. Hai hàng nước mắt không hẹn mà cùng nhau lăn dài trên gương mặt thanh tú của cô bé học sinh lớp 11. Nếu như phép màu là có thật thì có lẽ giờ này Lan đang ước Chúa đến mang những nỗi buồn của em bay xa bay xa mãi.

Thời gian thấm thoắt thoi đưa khiến con người ta cảm thấy choáng ngợp, nhỏ bé. Mới hôm nào Lan bước vào năm học mới với lòng hân hoan, vui mừng, với bao niềm hy vọng, sự hứa hẹn về một năm học gặt hái nhiều thành công, vậy mà hôm qua đã là ngày tổng kết trường. Hôm nay, Lan về quê nghỉ hè với ông bà nội, về với mảnh đất chôn giấu bao kỉ niệm tuổi thơ ngọt ngào của em, mảnh đất bình yên, hiền hoà nằm êm đềm bên dòng sông La. Vừa về đến cổng Lan đã cất tiếng gọi thật to:

- Ông bà ơi… Ông bà ơi… Bé Lan của ông bà về rồi đây… Ông bà ơi…

Nghe tiếng Lan, từ trong căn nhà mái ngói đỏ son, ông bà Lâm chạy ùa ra ôm chầm lấy đứa cháu gái bé bỏng cho thỏa bao ngày tháng nhớ mong. Bà Lâm giữ chặt Lan trong vòng tay gầy guộc của mình, hít hà hương thơm trên mái tóc của em như cách bà thường làm khi em còn nhỏ. Ông Lâm đứng cạnh, nhìn hai bà cháu âu yếm, trìu mến. Ngay lúc này đây, bao nét khắc khổ, sự vất vả, cực nhọc vì những năm tháng mưu sinh in hằn lên thành những nếp nhăn, những vết chân chim sâu hoắm trên khuôn mặt ông Lâm bị che lấp đi và thay vào đó là nụ cười thật tươi tựa nắng ấm. Ngày xưa, vì ông bà nghèo nên bố mẹ Lan phải theo chân họ hàng ra nước ngoài khởi nghiệp. Bởi vậy, tuổi thơ của em là những năm tháng yên bình, ngọt ngào trong vòng tay che chở, yêu thương của ông bà nội. Dù cuộc sống có thiếu thốn, có vất vả, bữa no bữa đói nhưng trái tim em, tâm hồn em luôn được ủ ấp trong tiếng ru của bà, trong từng câu chuyện cổ tích, truyện dân gian mà ông nội kể những trưa hè oi bức. Dưới mái ngói đỏ tươi của căn nhà ấm ấp, những câu chuyện ấy như vừa mới hôm qua thôi mà nay Lan đã sắp là học sinh cuối cấp chuẩn bị bước sang những ngưỡng cửa quan trọng của cuộc đời.

Nắng lên chan hòa khắp nơi nhảy múa tưng bừng trên mái nhà đỏ thắm. Ánh nắng hòa tấu cho bản giao hưởng chào buổi sớm của đàn chim ca, đậu trên đôi vai gầy xương xương của bà Lâm, tỏa rạng ngời trên gương mắt phúc hậu của ông Lâm và chan hòa trong từng trái tim của gia đình nhỏ. Lan theo ông bà vào nhà. Em cúi lạy trước bàn thờ Chúa, thắp nén nhang lên bàn thờ tổ tiên, cảm tạ về chuyến đi dài bình an. Bà Lâm đã chuẩn bị một nồi chè to để đón Lan về. Món chè đỗ đen của bà là món quà mà Lan nhớ lắm khi sống ở thành phố phồn hoa, tấp nập. Ngồi bên ông bà quanh nồi chè còn nghi ngút khói, Lan hồi tưởng lại không khí gia đình đầm ấm khi xưa.

- Lúc bé, con phải ăn liền được ba bốn bát chè ông bà nhỉ, chè của bà nấu là ngon nhất ông nhỉ! - Cái đầu Lan lắc lư tinh nghịch.

- Chà chà, giờ bà già lắm rồi, nấu chè cũng chả ngon nữa rồi, không biết Lan của bà còn thích món chè này không nữa?- Bà Lâm vừa nói vừa xoa đầu đứa cháu gái bé nhỏ

- Hì hì, bà của con đẹp lắm nên con mới xinh xắn đáng yêu vậy nè. Bà nội có già đi thì vẫn mãi là người phụ nữ đẹp nhất trong lòng con.

- Cha tiên sư bố cô, chỉ giỏi nịnh thôi. Mau ăn chè đi kẻo nguội mất lại chẳng ngon đâu con.

Bà Lâm suốt bao năm vẫn vậy. Sự dịu dàng, trìu mến đã ăn sâu vào trái tim bà, chẳng thay đổi. Có chăng sự đổi khác là tuổi tác hay thời gian khiến bà ngày một già yếu đi nhưng tình thương bà dành cho con cháu chưa bao giờ vơi mà tình yêu ấy như nặng sâu thêm theo thời gian, theo năm tháng. Rồi như nhớ ra vấn đề gì, bà Lâm hỏi Lan:

- Lan này con, ở trên đấy học hành bận bịu vậy con vẫn thường xuyên đi lễ chứ?

- Dạ, vâng, con vẫn chăm đi lễ mà. Đến bên Chúa con thấy bình yên lắm bà ạ!

- Vậy còn bố mẹ con thì sao, hai đứa nó vẫn đi lễ chứ?

- Bố mẹ con…bố mẹ con thì…

Lan đưa ánh mắt nhìn xa xăm. Cổ họng em nghẹn đắng chẳng nói lên lời. Em vốn định giấu chuyện này nhưng…

- Bố mẹ con… không đi lễ… Bố mẹ đi làm cả ngày lẫn đêm. Ngày nào được nghỉ bố lại bận đi tiếp khách hàng, đi mời chào khách, mẹ con cũng không tới nhà thờ dù có được nghỉ. Mỗi lần con nhắc bố lại giận. Các cô các bác trong giáo xứ bàn tán về gia đình con nhiều lắm…

- Vậy là…bao năm nay… Khụ! Khụ!... Bao năm nay… Khụ! Khụ!... Chúng nó bỏ…?- Ông Lâm nói chẳng thành tiếng.

Vịn tay vào ghế ông khó nhọc đứng dậy. Rồi trước mắt hai con người mà mình thương yêu ông Lâm loạng choạng ngã xuống. Khuôn mặt ông tái nhợt. Môi ông thâm tím lại. Tay ông giữ chặt lồng ngực đầy đau đớn. Miệng ông lắp bắp như muốn nói điều gì. Rồi ông từ từ lịm đi. Lan gọi ông trong kinh hoàng:

- Ông ơi… Ông nội ơi… Ông nội tỉnh lại đi…

Lan chạy vội sang nhà bác Kiên hàng xóm để nhờ bác giúp đỡ:

- Bác ơi, bác đỡ ông nội con với, ông nội con ngất đi rồi…- Lan nói trong nước mắt.

Hai bác cháu chạy vội về nhà. Bác Kiên gọi xe cấp cứu cho ông Lâm. Lan cùng bà chạy sau chiếc xe cho tới khi cánh cửa phòng cấp cứu đóng sập lại vô tình trước con mắt thẫn thờ của hai bà cháu. Vậy là niềm vui đón đứa cháu gái yêu dấu trở về chưa tròn thì giờ ông Lâm lại phải nằm trong phòng cấp cứu. Bà Lâm bước đi, ánh mắt vô hồn. Tay bà vịn chặt vào tường. Bà lê từng bước chân cách khó nhọc. Lan đỡ bà ngồi xuống ghế. Mắt em cũng đã sưng húp lên. Em đấm mạnh vào ngực mình tự trách:

- Tại con, tất cả là tại con… Nếu con không kể chuyện bố mẹ thì ông đã không ngất đi, là lỗi do con, do bố mẹ con. Ông nội kì vọng vào gia đình con vậy mà…

Bà Lâm giữ chặt tay Lan, không cho em tự làm tổn thương chính mình. Rồi bà kéo Lan vào lòng, thủ thỉ bằng chất giọng trầm ấm thân quen:

- Con à, ông con bị bệnh tim lâu rồi. Bác sĩ bảo tránh không được để ông lo lắng quá nhưng biết chuyện bố mẹ con như vậy thì làm sao ông ấy không đau lòng cho được. Khổ thân ông quá con ơi…

- Ông bị bệnh tim? Sao ông bà giấu con?- Lan nức nở

- Con à, ông bà không muốn con và bố mẹ con lo lắng. Con còn phải đi học, bố mẹ con còn đi làm nên ông bà không dám bảo. Ông con bị bệnh nên ngày càng đau yếu. Ông bà nhớ thương con, mong con về nhưng điện lên trên đó thì không có người nhấc máy. Ông bà chỉ có thể gặp gia đình con trong lời cầu nguyện mà thôi. Ông bà cũng chỉ biết xin Chúa cho gia đình con mạnh khỏe, bình an.

Đưa mắt về phía phòng cấp cứu với ánh nhìn đầy hy vọng về sự tỉnh lại của ông Lâm, lặng một lát bà Lâm tiếp lời:

- Ông bà mong dù cuộc sống xô bồ tấp nập các con của ông bà vẫn giữ trọn bổn phận là một nghĩa tử của Chúa. Vậy mà cái thằng trời đánh ấy lại bị hoa mắt trước tiền bạc danh vọng mà quên mất việc lễ lạy… Thỉnh thoảng cũng có người từ trên đó về nói chuyện mà ông bà nào nào có tin. Ông ấy nhất định tin tưởng thằng con trai quý báu của mình, dù cho người làng có nói ra nói vào thế nào đi chăng nữa. Vậy mà tất cả đều là thật…

Bà Lâm như chẳng còn chút sức lực nào đưa tay lau những giọt nước mắt đã lăn dài trên má.

- Ông nội con có làm sao thì bà phải sống thế nào đây con ơi? - Bà Lâm nói trong nước mắt.

Lan vòng tay ôm lấy thân hình gầy guộc, nhỏ bé của bà. Em muốn dùng hơi ấm trái tim mình sưởi ấm cho cõi lòng đang đau đớn, rỉ máu của bà. Thương bà bao nhiêu em lại trách mình, trách bố mẹ mình bấy nhiêu. Nếu em về thăm ông bà thường xuyên hơn thì đâu đến nỗi em không biết ông nội đang gồng mình ngày tháng chống lại căn bệnh tim quái ác, cũng đâu đến nỗi ông bà em phải sống những ngày tháng cuối đời trong cô đơn hiu quạnh. Nếu em không kể chuyện ngoài thành phố thì giờ đây ông em cũng không phải nằm viện. Nếu bố mẹ em không chạy theo vật chất, tiền bạc, không vì có chút tiền sau chuyến đi làm ăn nơi xứ người rồi đòi rời quê ra thành phố sinh sống, thì có lẽ giờ đây gia đình em đã cùng với ông bà sống trong hạnh phúc, an hòa. Cuộc sống giản đơn như vậy thôi mà sao xa xỉ với gia đình em quá. Đồng tiền có sức mạnh chi mà sao khiến gia đình em chia ly, đau buồn. Đồng tiền có ma lực gì mà khiến bố mẹ em dám vứt bỏ hạnh phúc gia đình, dám hy sinh chữ hiếu, chữ đạo để chạy theo. Nhớ lại lời Chúa dạy: “Đừng làm tôi hai chủ”, Lan càng hiểu được bố mẹ em đã sống tội lỗi thế nào. Nhưng… mẹ là người đã mang nặng chín tháng mười ngày chịu bao đau đớn, khổ sở để sinh thành nên em. Bố là người đã một nắng hai sương, chịu bao áp lực, tủi nhục, cực nhọc, hy sinh cả tuổi thanh xuân để kiếm đồng tiền bát gạo nuôi em và gia đình. Lan biết dù cho những việc mà họ đang làm là vì gia đình này hay, những việc ấy khiến em biết ơn, nhưng con đường mà họ đang đi không làm đẹp lòng Chúa thì mọi thứ đều trở nên vô nghĩa, hư không trước mặt Ngài. Giờ này, chính con đường ấy khiến người ông em yêu quý đứng trong ranh giới giữa sự sống và cái chết thì họ vẫn thật đáng trách.

Chợt, cánh cửa phòng cấp cứu khẽ mở. Lan đỡ bà chạy lại bên bác sĩ. Bà Lâm lắp bắp:

- Bác sĩ ơi, ông nhà tôi có… có làm sao không? Ông nhà tôi đã tỉnh chưa? Ông nhà tôi sẽ khỏe phải không?

Bác sĩ thinh lặng đợi bà Lâm nói hết câu rồi bình tĩnh trả lời:

- Tạm thời ông nhà đã qua cơn nguy hiểm nhưng thời gian cho ông không còn nhiều, gia đình nên chuẩn bị tâm lý.

Nói xong bác sĩ bước đi, để lại đằng sau hai khuôn mặt thất thần, ánh mắt lo âu đầy sợ hãi. Bà Lâm ngã khuỵu xuống đất. Đôi chân bà như mềm nhũn ra không chút sức lực. Lan ngồi xuống ôm lấy bà để an ủi, để che chở và để tìm thấy chỗ dựa cho trái tim đang đau đớn, quặn thắt như muốn vỡ tung ra ngay lập tức của em. Lúc này trên hành lang dài hun hút, xám xịt, u ám của bệnh viện có hai bóng người đang ôm chầm lấy nhau để tìm kiếm hơi thở của sự sống.

* * *

Không khí ngột ngạt bao trùm lên bốn con người: bà Lâm, Lan và... anh Phương, chị Dung- bố mẹ Lan. Họ đã trở về khi người cha già sức tàn lực kiệt mong manh trên ranh giới giữa sự sống và cái chết. Anh Phương quỳ phục bên giường bệnh của bố. Đôi bàn tay đen sạm thô ráp của anh run run nắm lấy đôi bàn tay gầy guộc, yếu ớt của người cha già. Chẳng biết đã bao lâu rồi anh không nắm lấy đôi bàn tay này. Cảm giác sao mà thân thương, quen thuộc quá! Cảm giác ấy chầm chậm lướt đi trên từng mảng da thớ thịt của anh rồi tinh ranh len lỏi vào sưởi ấm trái tim đã nguội lạnh bao tháng năm của người đàn ông chai đá. Cuộc sống mưu sinh đã ăn mòn từng sợi dây cảm xúc, đã hút kiệt từng mạch máu yêu thương trong anh. Hay có chăng vì nghĩ cho con, cho gia đình theo cái cách của riêng mình mà anh Phương đã chôn chặt tận đáy sâu trái tim mình nguồn mạch của tình yêu, đã giấu nhẹm đi những lo âu, những băn khoăn, thao thức về một gia đình con Chúa hạnh phúc, an hòa. Phải chăng bố Lan đã quyểt định để cuộc sống tấp nập, xô bồ chèo lái con người anh mặc cho bản ngã đã nhiều lần dậy sóng. Bất chợt, anh Phương bật khóc như một đứa trẻ nhỏ:

- Bố ơi, con về rồi đây, con trai bố đã về rồi đây. Bố tỉnh lại nói chuyện với con đi, bố tỉnh lại mà mắng mà đánh thằng con bất hiếu của bố đi, bố ơi...

- Sao bố cứ nằm hoài vậy, sao bố cứ nhắm mắt vậy, bố dậy để con còn đấm lưng, còn pha trà cho bố uống chứ…

Chị Dung đứng đằng sau ôm chặt lấy đôi vai đang run lên bần bật của chồng. Cánh tay chị đưa lên lau những giọt nước mắt đang lăn dài trên má. Có thể vì nghe thấy tiếng con hay là vì Chúa cho ông thức dậy lần cuối để rồi ra đi mãi mãi mà bất giác ông Lâm tỉnh lại. Ông khó nhọc kéo đôi mi nặng của mình lên để nhìn ngắm các con. Ông thều thào:

- Về rồi à, con trai? Về là tốt rồi… tốt rồi… Con về chắc Chúa mừng lắm. Ngài cũng đang đợi ta ở trên kia, con à. Ngài muốn ta về với Ngài rồi. Ta đi rồi con nhớ phải giữ cho trọn đạo với Chúa và với tổ tiên để nơi xa kia ta được yên lòng. Chúa là Đấng giàu lòng nhân từ, Ngài sẽ tha hết mọi tội lỗi cho con nên đừng làm Ngài thất vọng thêm lần nữa.

Nói rồi ông Lâm từ từ nhắm mắt lại. Khuôn mặt ông rạng ngời hạnh phúc. Ông đã theo Chúa về thiên đàng hạnh phúc và bình yên. Nơi ấy là phần thưởng tuyệt vời mà Chúa ban cho ông. Ở nơi ấy ông sẽ không phải lo lắng, chờ đợi, cũng không phải thấy lời ra tiếng vào thêm lần nào nữa. Sự ra đi của ông thật bình an.

Lòng anh Phương tê dại. Anh đâu có ngờ lần này về cũng chính là lần cuối anh được gặp ông Lâm. Anh đâu có ngờ những quyết định sai lầm đã bắt anh phải trả giá đắt đến như thế này. Anh sẽ chẳng bao giờ có thể nhìn thấy nụ cười của bố, sẽ chẳng bao giờ được nghe bố nhắc nhở, âu yếm, sẽ chẳng bao giờ được bố dạy những lời kinh, những bài hát thánh ca ca tụng Chúa, và cũng chẳng bao giờ được cùng ông tới nhà thờ cầu nguyện nữa. Giờ đây anh có hối hận, có day dứt thì cũng chẳng thể làm ông Lâm sống lại, cũng chẳng thể làm thay đổi quãng thời gian suốt bao năm dài anh sống xa rời Chúa. Nhưng chính Chúa đã kéo anh lại, chính Chúa đã mang anh trở về, trở về là cậu Phương của ba mươi năm về trước, một cậu giúp lễ thông minh, chăm chỉ, ngày ngày áo trắng quần xanh theo cha tới nhà thờ. Bởi lẽ, Chúa của anh là Đấng chậm giận và giàu tình thương. Ngài luôn đợi anh quay trở về cho dù Ngài phải đợi một năm, hai năm, năm năm hay là lâu hơn nữa. Có lẽ giờ này Ngài đang mỉm cười hạnh phúc khi nhìn thấy những giọt nước mắt thống hối ăn năn của anh. Chính Ngài sẽ bù đắp những vết thương, những nỗi đau trong tâm hồn trong trái tim anh.Từ đây anh Phương sẽ cất vang mãi khúc ca: “Con nay trở về, trở về cùng Chúa ơi. Con nay trở về lòng sầu thống hối ăn năn…”, để tạ ơn Chúa đã luôn mở cửa trái tim chào đón anh- đứa con hoang đàng của Chúa trở về.

* * *

“Lan con ơi, mau dọn cơm dọn nước ra ăn để còn tới nhà thờ. Hôm nay Chầu Thánh Thể đấy, nhanh nhanh kẻo muộn…”

“…”

“Lạy Cha chúng con ở trên trời…”

Nhờ ơn Chúa mà căn nhà bà Lâm từ chỗ hiu quạnh, vắng lặng đã trở nên ấm áp với từng câu kinh Lạy Cha ngọt ngào, thân thương trong mỗi bữa cơm chiều. Từ đây Lan sẽ chẳng phải ngày ngày thui thủi đi lễ một mình, cũng sẽ chẳng phải nghe những tiếng bàn tán xôn xao, những lời ra tiếng vào, những ánh mắt soi mói, ghen tương trong dòng cuộc sống bon chen, tranh đua chốn phố thị phồn hoa, ồn ào. Sau ngày lao động vất vả, gia đình Lan quây quần bên mâm cơm đạm bạc rồi cùng nhau tay trong tay bước vào nhà Chúa dâng lên Ngài lời cảm tạ, tri ân. Cuộc sống phồn hoa, hào nhoáng, lạnh lẽo của gia đình Lan đã khép lại để nhường chỗ cho một mái ấm tràn ngập tiếng cười, niềm vui, tràn ngập tình Chúa tình người.

Thời gian trôi mau. Chẳng mấy đã tới ngày Lan bước vào đời tu trong tu hội Tận Hiến. Nhìn con gái mỉm cười rạng rỡ trong chiếc áo dòng lòng anh Phương dâng trào niềm hạnh phúc. Vậy là anh đã có thể đáp trả ân tình lớn lao mà Chúa dành cho anh và cũng đã hoàn thành được lời hứa với người cha quá cố. Anh sẽ mãi là bến đỗ bình yên, là hậu phương vững chắc tiếp sức mạnh cho nữ tu Mai Lan bay cao, bay xa trong tình thương, sự quan phòng của Chúa đến muôn đời.